Trầm tích văn hoá từ những di tích
Mảnh đất Hải Dương hiện đang lưu giữ khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi vật thể đa dạng, độc đáo với 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng. Từ những dấu ấn thời kỳ đồ đá cũ có niên đại trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá, núi Nhẫm Dương, đến những di chỉ, di vật có giá trị của thời đại đồ Ðồng tại Ðồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà),… Văn hoá Lý, Trần, Lê, Nguyễn là dòng chảy liên tục và rực sáng trên vùng đất này, đã tạo nên một không gian văn hoá đặc biệt – nơi kết hợp hài hòa cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với chiều sâu lịch sử và tâm linh với 127 di tích được xếp hạng quốc gia mà tiêu biểu là Côn Sơn – Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chí Linh). Chỉ trong một không gian chừng 5 km2 đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ đại của đất nước và thế giới. Ðó là Trần Hưng Ðạo – danh nhân quân sự, Nguyễn Trãi – danh nhân văn hoá, Chu Văn An – “người thầy của muôn đời”; cùng An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn) đã trở thành những huyền thoại của non sông đất Việt.
Di tích lịch sử ở Hải Dương
Văn hoá – Nhìn từ những lễ hội truyền thống
Giá trị đặc trưng của văn hoá xứ Ðông được thể hiện qua các lễ hội truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng dân cư Hải Dương xưa và nay. Ngay từ ngày mùng 1 Tết Nguyên Ðán, chùa Ðồng Ngọ (Thanh Hà) đã mở hội đánh chuông. Ðây là lễ hội mở đầu cho các lễ hội mùa xuân của tỉnh. Tháng Tám – mùa thu, lễ hội đền Kiếp Bạc (Chí Linh) là một trong những lễ hội lớn nhất của cả nước. Ðến với lễ hội xứ Ðông, quý khách sẽ được tham dự các đám rước lớn, các trò chơi dân gian đặc sắc: trò thuỷ chiến – lễ hội đền Kiếp Bạc; bơi trải – lễ hội đền Quát, đánh gậy – lễ hội đền Cuối (Gia Lộc); hát chầu văn (Ninh Giang); trò đánh bệt – lễ hội đền Sượt (thành phố Hải Dương); thi nấu cơm – lễ hội chùa Hào Xá (Thanh Hà); đu tiên, leo núi, du xuân – lễ hội Côn Sơn,… Với 566 lễ hội được khôi phục, lễ hội xứ Ðông mang đậm yếu tố lịch sử, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo, cầu mong quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, đời sống ấm no, ngợi ca những bậc tiền nhân, anh hùng dân tộc có công với dân với nước, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, hướng đến sự cao đẹp.
Cùng với những lễ hội dân gian, xứ Ðông còn nổi tiếng là một trong những cái nôi của nghề thuật hát chèo của vùng Ðồng bằng Bắc Bộ. “Chiếng chèo Ðông” với những nghệ nhân tên tuổi như: Phạm Thị Trân, Trùm Thịnh, Trùm Bông, cố nghệ sĩ nhân dân Trịnh Thị Lan, Minh Lý,… có công lao to lớn trong việc xây dựng và phát triển nghệ thuật hát chèo Việt Nam.
Ngoài bộ môn hát chèo, xứ Ðông còn lưu giữ nhiều loại hình văn nghệ dân gian như: nghệ thuật tuồng, múa rối nước, xiếc, hát ca trù, hát trống quân, hát đối, hát ru, ca dao, tục ngữ. Vốn văn hóa truyền thống phong phú ấy đã bộc lộ những nét nhuần nhị, trữ tình, lạc quan, đầy lãng mạn trong tính cách của người xứ Ðông.
Văn hoá – Nhìn từ những sản vật truyền thống
Văn hoá xứ Ðông được hình thành, đi lên bằng sức lao động cần cù, sáng tạo của con người trên mảnh đất này. Người Hải Dương không những giỏi làm ra hạt lúa, hạt đậu, hoa thơm trái ngọt như gạo nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng), vải thiều (Thanh Hà); dưa hấu (Gia Lộc); na dai, chuối mật (Chí Linh), mà còn biết chế biến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng khắp trong và ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cuốn, nem chua (thành phố Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa Kẻ Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cẩm Giàng), giò chả (Gia Lộc), mắm rươi, chả (Kim Thành), mắm cáy (Thanh Hà),…
Không những thế, Hải Dương còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống danh tiếng như chạm khắc đá Kính Chủ (Kinh Môn), chạm khắc gỗ Ðông Giao (Cẩm Giàng), kim hoàn Châu Khê, gốm Cậy (Bình Giang), gốm Chu Ðậu (Nam Sách), khắc ván in Hồng Lục – Liễu Tràng (Gia Lộc), thêu Xuân Nẻo (Tứ Kỳ), dệt chiếu Tiên Kiều (Thanh Hà). Những sản phẩm từ các làng nghề truyền thống này thể hiện sự sáng tạo khéo léo, tài hoa của người xứ Ðông.
Nhìn từ góc độ chủ thể sáng tạo văn hóa
Văn hoá xứ Ðông rực sáng bởi được hình thành, tạo dựng từ truyền thống yêu nước, kiên trung, cách mạng của con người Hải Dương. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất và người Hải Dương đã góp phần làm nên những mốc son lịch sử vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với các nhân vật lịch sử nổi tiếng như các nữ tướng Thiện Nhân, Thiện Khánh; Khúc Thừa Dụ, Yết Kiêu, Trần Khắc Chung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Chế Nghĩa, Ngô Bệ, Ðinh Văn Tả, Nguyễn Hữu Cầu, Ðốc Tít, Ðỗ Quang, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng,… Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, có trên 30 vạn thanh niên Hải Dương tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. 38.295 người con ưu tú của Hải Dương đã hy sinh, toàn tỉnh ghi danh 1.658 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Nhân dân và đất nước đời đời ghi công ơn họ. Họ là những tấm gương cho các thế hệ hôm nay trong bài học về chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Hải Dương còn là đất học, đất khoa bảng. Hải Dương đứng đầu về tiến sĩ nho học của cả nước với 472 người, trong đó có 11 trạng nguyên. Làng Mộ Trạch, huyện Bình Giang được tôn phong là “Làng tiến sĩ” với 39 tiến sĩ dưới các triều đại phong kiến. Văn Miếu Mao Ðiền (Cẩm Giàng) – Văn Miếu trấn Hải Dương xưa là một minh chứng cho truyền thống hiếu học của người xứ Ðông. Nhiều tiến sĩ nho học của Hải Dương là những tác giả nổi tiếng, để lại cho ngày nay hàng trăm tác phẩm có giá trị trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học, văn học, ngoại giao như: Tuệ Tĩnh, Mạc Ðĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Vũ Hữu, Nguyễn Dữ,… Ðặc biệt là Nguyễn Thị Duệ – nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam.
Những người con của Hải Dương nay – xứ Ðông xưa luôn tự hào về những truyền thống văn hoá tốt đẹp của mảnh đất “địa linh, nhân kiệt”, nơi “ánh mặt trời tỏa sáng miền duyên hải” này và đang nỗ lực kế thừa, phát huy những truyền thống đó trong cuộc sống hôm nay.
Nguồn tin: www.dulichhaiduong.info
Những tin mới hơn