Khu di tích Quốc gia đặc biệt Côn Sơn - Kiếp Bạc

Thứ ba - 10/11/2015 09:37 - 8465 lượt xem
Từ trước đến nay NCL đã có một số bài viết giới thiệu về khu di tích Côn Sơn- Kiếp Bạc. Tuy nhiên, để bạn đọc nắm được một cách đầy đủ hơn về danh thắng này- NCL xin giới thiệu thêm một số bài của Ban Quản lý KDT Côn Sơn- Kiếp Bạc.
Côn Sơn, Kiếp Bạc là hai di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia; thời Trần, thuộc huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, thời Lê đổi thành huyện Phượng Nhỡn, thuộc thừa tuyên Bắc Giang, sau là trấn Kinh Bắc. Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp huyện Cẩm Lý (tỉnh Bắc Giang), phía nam giáp 2 xã Cộng Hoà và Văn An (huyện Chí Linh), phía đông giáp xã Bắc An và xã Hoàng Hoa Thám (huyện Chí Linh), phía tây giáp huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang).

Sách Cao Biền di cảo và Chí Linh phong vật chí chép rằng: Côn Sơn, Kiếp Bạc mạch tự Huyền Đinh, thế ngăn Đông Bắc, bốn phương quy phục, núi sông kỳ hình, kỳ dạng, long bàn, hổ cứ, như muôn quân, nghìn tướng chầu về…ở đất này sẽ được hưởng phúc muôn đờiKhu di tích danh thắng Côn Sơn bao gồm cả núi Kỳ Lân và núi Ngũ Nhạc liền kề; Đền Kiếp Bạc tựa lưng vào núi Trán Rồng, trước mặt là sông Lục Đầu. Côn Sơn - Kiếp Bạc lại tiếp giáp với dãy núi Phượng Hoàng (địa phận 2 xã Cộng Hoà và Văn An) và núi Rùa (phía tây bắc), tạo thành một vùng đất quần tụ đủ tứ linh, ngũ nhạc, lục đầu giang *1. Đó là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hoá đối với khu vực di tích danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc - Phượng Hoàng  với sông núi huyện Chí Linh*2.

 Đây là vùng đất lịch sử mãi còn âm vang những chiến công lẫy lừng qua nhiều thời đại, đặc biệt là trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là cũng là vùng danh sơn huyền thoại, với những thắng cảnh tuyệt vời, những di tích cổ kính, gắn liền với thân thế, sự  nghiệp của
Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, hai vị anh hùng dân tộc kiệt xuất đã làm rạng rỡ non sông đất  nước, cùng  với  nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang…
***

Nếu như khu di tích lịch sử Kiếp Bạc có một di tích trung tâm, lớn nhất, linh thiêng nhất là ngôi đền cổ thờ Đức Thánh Trần; du khách về chủ yếu là để tưởng niệm nhớ ơn Đại Vương và để sinh hoạt tâm linh, thì ở quần thể di tích lịch sử - văn hoá - danh thắng Côn Sơn, cụm di tích thờ Phật (chùa Hun) và cụm di tích về danh nhân (đền thờ Nguyễn Trãi), đều có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt; du khách tới đây dâng hương niệm Phật, tưởng nhớ Ức Trai và ngoạn cảnh, tiêu dao, nên có nhiều người là trí giả, văn nhân và đông đảo thày giáo, học trò. Xưa nay, người đời tìm đến Côn Sơn là cuộc tìm về với căn nhà vũ trụ, nơi hoà hợp tột cùng của âm dương, sơn thuỷ và trời đất. Để ở đó, con người được hưởng thụ khí trời trong mát, với hương rừng, gió núi và tiếng ca muôn thuở của suối chảy, thông reo; được đắm mình trong hồn thiêng sông núi, trong cổ tích ngàn năm còn rung động trái tim của muôn triệu con người.
         
Côn Sơn là mảnh đất lịch sử lâu đời. Hơn một ngàn năm trước, Định quốc công Nguyễn Bặc, thượng thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở đây để đánh sứ quân Phạm Phòng Át, giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất  nước vào năm 968. Trong các cuộc chiến tranh giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc, quân dân trong vùng thường lấy rừng núi Côn Sơn làm căn cứ đánh giặc.

         
Cùng với Yên Tử, Quỳnh Lâm và Thanh Mai, Côn Sơn là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một Thiền phái mang đậm bản sắc văn hoá Việt 
Nam.  Đệ nhất tổ - Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ - Pháp Loa tôn giả và đệ tam tổ - Huyền Quang tôn giả đều đã về đây hoằng dương thuyết pháp, phát triển giáo giới, xây dựng chùa Hun thành chốn tổ đình, một Thiền viện lớn từ thời đại nhà Trần.
         
Côn Sơn là mảnh đất có bề dầy văn hoá hiếm có. Ở đây, văn hoá Phật giáo, văn hoá Nho giáo và văn hoá Lão giáo cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt, đều để lại dấu ấn qua mỗi công trình xây dựng, qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các bia đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối… Văn hoá Lý - Trần, văn hoá Lê - Nguyễn hiển hiện trước mắt mọi người và ở các tầng văn hoá dưới lòng đất khi khai quật khảo cổ học. Di sản văn hoá phi vật thể quý giá ở Côn Sơn chứa đựng trong sách vở, trong các truyền thuyết còn lưu, trong các nghi thức cúng tế, trong các hoạt động lễ hội vô cùng phong phú. Cũng hiếm ở đâu như ở Côn Sơn lại có nhiều trí thức, văn nhân, những nhà văn hoá đến thăm, cảm hứng và sáng tạo đến như ở Côn Sơn. Đây thực sự đã là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh nhân, tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách, tinh hoa văn hoá Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng như của bao tao nhân mặc khách. Trần Nguyên Đán - quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn dựng Thanh Hư Động để lui nghỉ những năm tháng cuối đời. Thời Lê sơ, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi đã nhiều lần, nhiều năm sống, gắn bó chan hòa cùng thiên nhiên, tạo vật ở Côn Sơn - "núi nhà"*3, tìm thấy nơi đây bạn tri âm tri kỷ và nguồn thi hứng dạt dào. Lê Thánh Tông, vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy (thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát (thời Nguyễn) v.v. đều đã đến đây tìm lại dấu vết Ức Trai, vãng cảnh, làm thơ, để lại những thi phẩm giá trị. Tháng 2-1965, Hồ Chủ tịch về thăm Côn Sơn. Người đã lên thăm Thạch Bàn, Thanh Hư động và đọc văn bia trước cửa chùa Hun, bằng sự trân trọng thiêng liêng và niềm giao cảm đặc biệt đối với cổ nhân. Người xưa từng đúc kết: "Núi chẳng cần cao có tiên ắt nổi tiếng. Nước chẳng cần sâu có rồng ắt thiêng". Mỗi sự vật, di tích ở Côn Sơn đều lấp lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi - Sao Khuê; mỗi địa danh ở Côn Sơn đều in đậm dấu ấn thiêng liêng, áng thi văn, cổ thoại, truyền thuyết ly kỳ và những sự tích bất hủ của những danh nhân kim cổ. Những di tích và tên tuổi các danh nhân,  của Trúc Lâm Tam Tổ, đặc biệt là của Nguyễn Trãi, đã nâng tầm vóc Côn Sơn trở thành quốc tự, thành di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia, thành "một cõi đi về" trong đời sống tâm hồn của muôn triệu người dân Việt, kể cả những người sống xa Tổ quốc  .

         
Cảnh sắc thiên nhiên và con người tạo dựng đã làm cho Côn Sơn thành một "Đại thắng tích"*4. Ở đây, có núi Kỳ Lân và Ngũ Nhạc, với rừng thông bát ngát, suối chảy rì rầm, nước hồ trong mát; có Bàn Cờ Tiên, Thạch Bàn, Giếng Ngọc; có chùa Hun, am Bạch Vân, đền Nguyễn Trãi, động Thanh Hư, cầu Thấu Ngọc, có Ngũ Nhạc linh từ… Cũng vì Côn Sơn cảnh vật tốt tươi, “sắc ngàn ráng đỏ, rừng gấm cuốn, cỏ lụa giăng”, chùa chiền cổ bích, am pháp thâm nghiêm, u tịch và tao nhã, nước biếc, non xanh, hữu tình và hoà hợp, thành miền thắng cảnh làm say đắm hồn người, là nơi con người có thể gửi gắm ước nguyện tâm linh, thoả chí hướng và rung động tâm hồn. Cho  nên, từ bao đời nay,  mùa trẩy hội, "trai thanh gái lịch đi lại đông như mắc cửi"*5; bao thi nhân, trí giả tìm về rồi ở đó, nghiền ngẫm và xúc cảm viết nên những trước tác có giá trị sâu sắc, những áng thơ văn tuyệt đẹp. Ở đây,  Huyền Quang viết kinh, thuyết pháp, làm thơ; Trần Nguyên Đán nghiên cứu nông lịch và viết "Băng Hồ ngọc hác tập", Nguyễn Phi Khanh viết “Thanh Hư Động ký” và Nguyễn Trãi viết "Côn Sơn ca" cùng nhiều bài thơ xứng là kiệt tác.

         
Những năm gần đây, nhân dân Hải Dương, được sự đồng lòng của đồng bảo cả nước, đã tu bổ hàng loạt di tích, đồng thời xây dựng mới nhiều công trình văn hóa lớn như đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán, đường lên Ngũ Nhạc v.v. làm cho Côn Sơn càng giàu thêm giá trị văn hóa, cảnh sắc càng thêm tráng lệ, tôn nghiêm và ngoạn mục, hấp dẫn nhiều du khách bốn phương.
*****
Kiếp Bạc là một địa danh lừng lẫy bên Lục Đầu Giang, cách Côn Sơn chừng 5 cây số. Kiếp Bạc có thế "rồng vươn, hổ phục", có "tứ đức, tứ linh". Thế sông núi hiểm mà hài hoà, hùng vĩ khoáng đạt mà trang nhã. Tại đây, hội nước 4 dòng sông từ thượng nguồn dồn về, chảy vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy, mang phù sa màu mỡ tốt tươi về xuôi bồi đắp. Bốn dòng sông ấy, ngoài các tên quen thuộc, đều có thêm một tên Hán tự có chữ "đức" đứng sau: sông Đuống (Thiên Đức), sông Cầu tức sông Như Nguyệt (Nguyệt Đức), sông Thương (Minh Đức), Sông Lục Nam (Nhật Đức); dòng chính về xuôi thì có tên là sông Thái Bình. Vì người xưa coi Lục Đầu Giang là nơi hợp lưu của 4 dòng đức lớn trong vũ trụ*6 mang thái bình tức là mang yên ổn thịnh vượng về cho trăm họ, muôn dân. Kiếp Bạc có đường thuỷ, đường bộ rất thuận tiện. Từ Kiếp Bạc có thể thuận tới Thăng Long, lên ngược, về xuôi, ra biển đều dễ dàng, nên đây là vị trí chiến lược, "quyết chiến điểm" mà cả quân dân Đại Việt cũng như quân xâm lược phương Bắc đều cần chiếm giữ trong các cuộc chiến tranh.

Vào thời nhà Trần ở thế kỷ XIII, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, vị tổng chỉ huy quân dân Đại Việt  trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông đã chọn Vạn Kiếp để đặt đại bản doanh, xây dựng phủ đệ. Với tài thao lược của Quốc Công Tiết Chế, Kiếp Bạc - Lục Đầu Giang đã phát huy sức mạnh tổng lực của thế trận chiến tranh nhân dân. Dưới sự chỉ huy của Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương, quân và dân Đại Việt đã "trên dưới một lòng, cả nước giúp sức" lập nên những chiến côn vang dội: Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp và cuối cùng là trận Bạch Đằng lừng lẫy, đánh bại hoàn toàn đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, để non song toàn vẹn, dân tộc khải hoàn ca khúc thái bình. Từ sau cuộc đại thắng giặc Nguyên lần thứ ba, Trần Hưng Đạo đã về ở hẳn tại tư dinh Vạn Kiếp cho tới cuối đời. Tại đây, trước nguy cơ quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, Đại Vương đã viết "Binh gia diệu lý yếu lược" để dạy tướng sỹ, và viết "Hịch tướng sỹ" để xác định trách nhiệm, nâng cao ý thức cảnh giác, tích cực học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, sắn sàng diệt giặc cho họ; sau khi về nghỉ, Ngài lại viết "Vạn Kiếp tông bí truyền thư", đúc kết những kinh nghiệm, những bí quyết đánh giặc giữ nước của một đời cầm quân truyền lại cho hậu thế. Trước khi mất, được vua Trần Anh Tông về thăm bệnh và hỏi kế sách giữ nước, Đại Vương đã căn dặn: "Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước".
         
Bởi Đại Vương là danh tướng bậc nhất "tài mưu lược, anh hùng, một lòng giữ gìn trung nghĩa … lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi là An 
Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên"*. Ngài đã được triều đình nhà Trần cho lập đền thờ ngay khi còn sống, gọi là Sinh Từ; Thượng hoàng Trần Thánh Tông tự soạn văn bia ngợi ca công đức Đại Vương.  Ngày 20 tháng Tám năm Canh Tý (1300), Đại Vương mất tại Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong là Thái sư Thượng phụ*8Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương; nhân dân Đại Việt tôn là Đức Thánh Trần, xây đền Kiếp Bạc để tưởng nhớ công lao to lớn đối với non sông, đất nước. Ngày giỗ Đại Vương hàng năm trở thành ngày chính hội Đền Kiếp Bạc. Hội Đền kéo dài hàng tuần, thu hút hàng chục vạn con dân Đại Việt từ khắp mọi miền đất nước về kính bái, nguyện cầu. Đó là một trong số lễ hội lớn nhất của cả nước được gìn giữ hơn 7 thế kỷ nay, trở thành mỹ tục truyền thống, thể hiện sâu sắc đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc.
         
Đền Kiếp Bạc cùng với hai ngôi đền trên núi Bắc Đẩu và Nam Tào được ví như "một cõi thiên bồng giữa hạ giới". Tại vị trí trang trọng nhất của Đền Kiếp Bạc, tượng Đức Thánh Trần bằng đồng nặng hàng tấn ngự trên ngai sơn son thếp vàng đường bệ, uy nghi, bao thế kỷ vẫn toát ra hùng tâm tráng chí và hào khí Đông A lẫm liệt, khiến khách hành hương không ai không ngưỡng vọng thành kính. Được phối thờ tại Đền là gia quyến của Đại Vương, gồm 04 tượng thờ: Nguyên từ Quốc mẫu Thiên Thành công chúa (tức phu nhân của Trần Hưng Đạo), tướng quân Phạm Ngũ Lão (danh tướng đời Trần, và là con rể của Đại Vương), 2 người con gái của Trần Hưng Đạo là  Đệ nhất Khâm từ Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa (phu nhân của vua Trần Nhân Tông), Đệ nhị Nữ đại hoàng Anh Nguyên quận chúa (phu nhân tướng quân Phạm Ngũ Lão) và 04 ngai cùng bài vị thờ vọng bốn con trai của Đại Vương.

         
Cổng đến Kiếp Bạc có câu đối nổi tiếng:

                             Kiếp Bạc hữu sơn giai kiếm khí
                             Lục Đầu vô thuỷ bất thu thanh
Nghĩa là: Kiếp Bạc muôn ngọn núi đều có hùng khí của kiếm thiêng
              Lục Đầu không con nước nào chẳng  vọng tiếng  thu*9
 
          Có thể nói, mỗi cảnh sắc, hiện vật, dấu tích ở Kiếp Bạc đều gợi về bản hùng ca giữ nước của dân tộc ở triều đại nhà Trần, gợi nhớ về Đức Thánh Trần linh thiêng trong tâm thức dân tộc Việt - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người kết tinh rực rỡ hào khí Đông A, linh hồn của các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược. Kiếp Bạc đã trở thành mảnh đất tâm linh, nơi tìm về dâng tấm lòng tri ân thành kính và lời cầu mong được phù giúp chiến thắng mọi trở lực, đạt được mọi điều sở nguyện trong đời của biết bao thế hệ người Việt, thuộc mọi tầng lớp và ở mọi miền đất nước.
***
Trong nhiều thế kỷ qua, những giá trị lịch sử - văn hoá lớn lao của Côn Sơn - Kiếp Bạc, cùng với danh thơm, sự nghiệp của các bậc vĩ nhân đã toả rọi hào quang vào lịch sử và văn hoá dân tộc. Sự linh thiêng của Kiếp Bạc, Côn Sơn tồn tại vĩnh hằng cùng sông núi nước Nam. Những công trình như chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, Đền Nam Tào, Đền Bắc Đẩu, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Ngũ Nhạc linh từ.... trong quần thể Côn Sơn - Kiếp Bạc mãi mãi là những chốn thờ tự thiêng liêng, nơi đặt niềm tin nhân thế. Vẻ đẹp hùng vỹ mà nên thơ, tráng lệ mà trầm mặc thanh u của cảnh vật do thiên nhiên và con người tạo dựng tại Côn Sơn - Kiếp Bac đang tiếp tục được chăm sóc, tu bổ  cho ngày càng tốt tươi, hoành tráng, giàu tiềm năng, ngày càng hấp dẫn du khách thập phương về đây niệm Phật, tưởng nhớ các danh nhân, "nghỉ ngơi chơi ngắm"*10, nâng cao tri thức và bồi bổ tâm hồn…

Ghi chú:
*1.
- Tứ linh:  4 con vật linh thiêng: rồng (long), kỳ lân (ly), rùa (quy), phượng hoàng (phượng)
- Lục đầu giang: Đoạn sông trước cửa đền Kiếp Bạc kéo xuống đến ngã ba sông thuộc địa phận Trần Xá phía dưới Phả Lại huyện Chí Linh được tạo nên bởi 6 đầu sông (S. Đuống, s. Cầu, s. Thương, s. Lục Nam, s. Kinh Thầy, s. Thái Bình) hợp lại, gọi là Sông Sáu Đầu, tên Hán là Lục Đầu Giang.            
-  Nhạc:  núi cao; Ngũ Nhạc: 5 núi cao. Nước Trung Hoa có Ngũ Nhạc gồm: Bắc Nhạc (Hằng Sơn), Nam Nhạc (Hoành Sơn), Đông Nhạc (Thái Sơn), Tây Nhạc (Hoa Sơn), Trung Nhạc (Tung Sơn).         
*2. Chí Linh: Rất linh thiêng, cực linh thiêng.
*3. Núi nhà: Khi nói về Côn Sơn, Nguyễn Trãi thường gọi là "gia sơn" (núi nhà), "hương lý" (làng quê), "cố lý"(làng cũ).
*4.và *5:  Nhận xét của Phạm Quý Nha trong "Công dư tiệp ký" của Vũ Phương Đề.
*6: Thiên Đức (Đức lớn của trời); Nguyệt Đức (đức lớn của trăng), Minh Đức (đức lớn của của sự sáng tỏ), Nhật Đức (đức lớn của của ban ngày với vầng Thái Dương toả sáng).         
*7. Trích "Đại Việt sử ký toàn thư", bản in Nội các quan bản khắc in năm Chính Hoà thứ XVIII (1697).
*8. Thượng phụ: Tức Lã Vọng, do giúp Chu Vũ Vương giành được thiên hạ, được Vũ Vương tôn làm thầy, gọi là Thượng phụ
*9. Tiếng thu: Ở đây là âm vang chiến thắng ngàn thu. Có bản dịch: "Kiếp Bạc núi nhô hình kiếm dựngLục Đầu vang dậy tiến quân reo".
*10. Nguyễn Phi Khanh - Thanh Hư Động ký. 

CHÙA CÔN SƠN

 
Núi Côn Sơn còn gọi là Kỳ Lân, nằm về phía đông bắc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là một trong những thắng cảnh nổi tiếng của nước ta được ghi trong sử sách từ nhiều thế kỷ trước. Vì vậy đã từ lâu, Côn Sơn trở thành một vùng văn hoá lịch sử, nơi di dưỡng tinh thần của bao bậc hiền triết. Các tao nhân mặc khách và muôn vàn kẻ sĩ của mọi triều đại tìm về Côn Sơn như tìm về căn nhà vũ trụ để thực hiện cuộc sống tâm linh trong sự hoà hợp tột cùng của âm – dương, sơn - thuỷ và trời - đất.
 
                Chùa Côn Sơn Thiên Tư Phúc
 
Chẳng những Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi …đã tìm về đây để sống đạo, hoằng dương phật pháp, mà còn có cả những vị vua cuối đời Trần như Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông và  nhiều trí thức Trần - Lê  khác dù đang phải gánh vác triều chính,thỉnh thoảng cũng lén về Côn Sơn để tu tâm dưỡng tính, tận hưởng không khí “bán nhật thâu nhàn ngã diệc tiên” (Trộm cái nhàn nửa ngày (ở Côn Sơn) ta cũng là tiên) theo cách nói của Nguyễn Phi Khanh.
          Chân núi Côn Sơn có một ngôi chùa cổ tên chữ hán là Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, tục gọi là chùa Hun, khởi dựng vào cuối thế kỷ XIII, được Pháp Loa mở rộng năm 1329. Cuối thế kỉ XIII, Thiền phái Trúc Lâm, một thiền phái Phật giáo mang ý thức dân tộc, tự chủ đã dựng liêu Kỳ Lân cho các tăng ni tu hành. Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, ba vị tổ xác lập thiền phái này đã từng tu hành và thuyết pháp ở đây. Vì thế, Chùa Côn Sơn trở thành một trong ba trung tâm nổi tiếng của dòng Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam:
" Côn Sơn, Yên Tử, Quỳnh Lâm
Nếu ai chưa đến thiền tâm chưa đành".
           Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) - Trúc Lâm đệ tam tổ đã về trụ trì chùa Côn Sơn. Tại đây ông đã tôn tạo mở rộng chùa Côn Sơn, với nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng như: Đài cửu phẩm liên hoa, am Bạch Vân… xây dựng tăng viện đào tạo tăng ni, giảng kinh thuyết pháp,…đưa Côn Sơn thành đại già lam, đại tùng lâm.
          Ngày 23 tháng giêng năm Khai Hựu thứ 6 (1334), sư tổ Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn, đệ tử dựng tháp để xá lị ở sau chùa. Tháp có tên gọi là Đăng Minh bảo tháp. Vì thế, Côn Sơn được gọi là chốn Phật tổ và hàng năm mở hội dâng hương vào trung tuần tháng Giêng.
          Thời Trần, kiến trúc chính của chùa là nội công ngoại quốc. Quy mô di tích khá lớn với đầy đủ các công trình kiến trúc đồ sộ, hoành tráng từ Hồ Bán Nguyệt lên đến đỉnh núi Côn Sơn như: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, 2 dãy tiền hành lang, hậu hành lang, Cửu phẩm liên hoa, các toà tháp và Am Bạch Vân….
          Thời Lê, chùa có quy mô 83 gian, có tượng nhìn mắt, nghìn tay, cửu phẩm liên hoa có 385 pho tượng…
          Trải qua thăng trầm của lịch sử, ngày nay chùa Côn Sơn vẫn còn dấu ấn  kiến trúc thế kỷ XIV, XVII, XVIII, XIX, vẫn tầng tầng lớp lớp theo lối cung đình: Hồ Bán Nguyệt, Tam quan, Gác chuông, phật điện, tổ đường, hậu hành lang…Hệ thống tượng thờ khá phong phú biểu hiện thế giới phật giáo thu nhỏ với ý nghĩa triết lý nhân sinh, giáo dục hướng thiện khai tâm cho chúng sinh.
          Hiện chùa còn lưu giữ nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú: Hệ thống văn bia từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX. Đặc biệt có tấm bia Thanh Hư động tạo thời Long Khánh (1373 – 1377) là bút tích của vua Trần Nghệ Tông; Tấm bia "Côn Sơn Tư Phúc tự bi" (1607), Bác Hồ đọc khi Người về thăm Côn Sơn (15/2/1965); Ngói mũi hài, ngói tráng men hoa nâu, đầu đao đất nung và chân tảng hoa sen là di tích thời Trần…Ngoài ra, còn các bộ sách kinh phật, bộ cúng đàn Mông Sơn Thí Thực, bùa chú của Huyền Quang, hệ thống phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi.
          Trải qua bao năm tháng chiến tranh, sự phá huỷ của thiên nhiên Chùa Côn Sơn nhỏ bé hơn rất nhiều so với hình bóng ngôi chùa xưa được ghi trong sử sách và bi kí. Nhưng không vì thế mà chùa Côn Sơn và núi rừng nơi đây mất đi vẻ tôn kính thiêng liêng vốn có của nó. Côn Sơn vẫn là nơi hấp dẫn bao tín đồ phật tử và du khách. Hơn nghìn năm tồn tại và phát triển, các lớp người Việt vẫn về đây chẩy hội, chiêm bái tưởng niệm các bậc danh nhân. Vì ý nghĩa to lớn đó khu di tích lịch sử danh thắng Côn Sơn trong đó có chùa Côn Sơn được Nhà nước  xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia (theo quyết định QĐ 313 VH/QĐ ngày 28/4/1962). Năm 1992, khu di tích Côn Sơn lại được Nhà nước công nhận   là di tích lịch sử - văn hóa, danh thắng đặc biệt quan trọng quốc gia.
          Đến Côn Sơn  là một dịp tìm về cõi thanh hư, để gần hơn với Phật tâm, nghe tiếng chuông mà tỉnh cơn mê nhập vào miền thánh thiện.

ỨC TRAI LINH TỪ - ĐỀN THỜ NGUYỄN TRÃI

Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 tại kinh thành Thăng Long; cha là Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán ở làng Chi Ngại, nay thuộc xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, sau dời đến làng Ngọc Ổi, tức Nhị Khê, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; Mẹ là Trần Thị Thái, con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
          Tuổi thơ Nguyễn Trãi sống với ông ngoại tại kinh thành Thăng Long; từ năm 1385 thì theo ông ngoại về ở Côn Sơn. Năm 1390, sau khi Trần Nguyên Đán qua đời, Nguyễn Trãi trở về Nhị Khê sống với cha. Được ông ngoại và cha trực tiếp dạy dỗ, rèn luyện, Nguyễn Trãi nổi tiếng tài đức và có chí lớn. Năm 20 tuổi đã thi đỗ Thái học sinh, cùng cha làm quan cho nhà Hồ.
          Thời giặc Minh xâm lược, theo lời cha dặn, ông mang nặng nợ nước, thù nhà, nuôi chí phục quốc. Dù bị giam lỏng 10 năm ròng ở thành Đông Quan, vẫn soạn Bình Ngô sách, nung nấu chí giết giặc.
          Thoát khỏi vòng kiềm toả của giặc, ông đến Lam Sơn tụ nghĩa, dự hội thề Lũng Nhai, dâng Bình Ngô sách ở Lỗi Giang, đem hết tài trí giúp Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh, có công rất lớn. Kháng chiến thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê lợi soạn Bình Ngô đại cáo, tổng kết tài tình cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. 


                         

                            Cắt băng khánh thành đền thờ Ức Trai ngày 22/9/2002
        Thời bình, Nguyễn Trãi dốc lòng giúp nhà Lê sửa sang việc nước, tổ chức triều chính, làm quốc gia cường thịnh. Theo Nguyễn Mộng Tuân (người đương thời) đánh giá, là chưa có ai bằng.
         Song vì chế độ phong kiến thời ấy lắm kẻ ghét ghen, đố kị với người hiền tài cương trực nên năm 1442 Nguyễn Trãi bị giết hại bởi vụ án Lệ Chi viên vô cùng thảm khốc. Phải 22 năm sau, Lê Thánh Tông mới giải oan cho ông. Và, 600 năm sau, trong thời đại Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi đã được suy tôn là Anh hùng dân tộc. Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Nguyễn Trãi là Danh nhân Văn hoá thế giới.
          Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài, mà còn là một nhà văn hoá lớn, trí tuệ uyên bác, nhân cách cao thượng, một nhà trước tác lừng danh của dân tộc, để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn, có giá trị bất hủ. Nguyễn Trãi là một con người toàn tài hiếm có của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là bài ca yêu nước, yêu dân, mãi mãi toả sáng vằng vặc như sao Khuê trên bầu trời, xứng đáng với lòng khâm phục, kính yêu và tự hào của nhân dân.
          Côn Sơn là khu di tích lịch sử đặc điệt quan trọng của nước ta, gắn liền với nhiều danh nhân lịch sử - văn hoá như: Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh v.v…Côn Sơn không chỉ là quê cha đất tổ của Nguyễn Trãi, mà còn là nơi ông sống những năm tháng tuổi thơ với ông ngoại, nơi ông sống những ngày sóng gió và những năm tháng cuối đời. Đối với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là “gia sơn”, là “cố hương”, là “cố lý” vô cùng thân thiết, gắn bó máu thịt với cuộc đời ông, góp phần hun đúc nên hồn thơ chan chứa, tinh thần cốt cách, khí phách lớn lao của người anh hùng dân tộc; và Côn Sơn luôn là người bạn tâm giao cho ông kí thác tâm hồn.
          Từ lâu, trong tâm trí nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, nói đến Côn Sơn là mọi người nghĩ ngay đến Nguyễn Trãi và ngược lại, nói đến Nguyễn Trãi là nghĩ đến Côn Sơn. Vậy mà khách thập phương ai cũng ngỡ ngàng khi đặt chân đến mảnh đất thiêng liêng này, được sống với biết bao kỷ niệm về Nguyễn Trãi, nhưng không có một ngôi đền thờ ông để dâng hương tưởng niệm. Vì thế xây dựng đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn đã trở thành ước nguyện của nhân dân bao năm nay. Bằng tất cả tấm lòng ngưỡng mộ và thành kính đối với ông, ngày 14 tháng 12 năm 2000, sau một qúa trình chuẩn bị, qua nhiều cuộc hội thảo được
 
Toàn cảnh Đền thờ Ức Trai
sự đóng góp của nhiều nhà khoa học, nhiều chuyên gia đầu ngành, nhiều nghệ nhân, trên nhiều lĩnh vực, như xây dựng, sử học, hội hoạ, kiến trúc, hán nôm…cùng với quyết tâm cao của cán bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương, đền thờ Ức Trai đã chính thức được khởi công xây dựng. Sau gần hai năm thi công, ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (tức ngày 22/9/2002) lễ khánh thành đền thờ Ức Trai đã được tổ chức long trọng tại Côn Sơn. Đền thờ Ức Trai toạ lạc trên một vị trí có thể nói là đắc địa dưới chân núi Ngũ Nhạc,
hướng chính là Nam ghé Đông 29010. Minh đường của đền nhìn thẳng ra hồ Côn Sơn, nơi có núi Phượng Hoàng và núi Hồ Phóng chầu vào. Thế của đền thờ Nguyễn Trãi là:
Tựa vào sừng sững Tổ sơn
Nhìn ra trập trùng An Lạc
Hữu  bạch hổ là cổ sơn Kỳ Lân
Tả thanh long là linh sơn Ngũ Nhạc
Liền kề dòng suối ngân nga
Bốn Phía rừng thông bát ngát
Ngôi đền xây dựng trên diện tích 10.000m2 với 15 hạng mục công trình. Sau khi thắp hương ở lư hương đá và chiêm ngưỡng bức phù điêu “ngư long gia hội” cùng đôi rồng đá nằm uy linh cuộn mình trên đường thần đạo trước cửa đền, quý khách bước vào đền chính. Đền rộng 200m2, kiến trúc theo kiểu chữ công (I). Các bức cốn, đầu dư đều chạm lộng, chạm bong, theo phong cách cổ truyền thời hậu Lê. Tổng thể công trình được xây dựng bằng những vật liệu quý hiếm: hơn 500m3 gỗ lim; hàng nghìn mét khối đá xanh Thanh Hoá; hàng vạn viên gạch, ngói phục chế theo lối cổ…Hoành phi, câu đối trong đền do Viện nghiên cứu Hán nôm sưu tầm tuyển chọn, Nội dung của hoành phi, câu đối thể hiện tâm hồn, nhân cách cao đẹp, tài năng và công đức lớn lao của Nguyễn Trãi, đồng thời thể hiện thái độ tôn vinh, tấm lòng biết ơn đối với Nguyễn Trãi. Gian Tiền tế bài trí ban thờ công đồng ở chính giữa, bên trái là ban thờ Sơn thần, bên phải là ban thờ Thổ địa theo tín ngưỡng cổ truyền. Trung từ có đặt ban lễ trình. Hậu cung bài trí tượng thờ chân dung Nguyễn Trãi bằng đồng cùng bài vị song thân phụ mẫu.
          Giờ đây, bên cạnh ngôi chùa Côn Sơn nguy nga cổ kính, rừng núi Côn Sơn lại tiếp nhận thêm một công trình văn hoá mới, đó là đền thờ Nguyễn Trãi. Đền thờ uy nghi hoành tráng, càng tô điểm thêm, rạng rỡ thêm khu di tích lịch sử đặc biệt quan trọng quốc gia này.

THANH HƯ LINH TỪ - ĐỀN THỜ TRẦN NGUYÊN ĐÁN

Đền Thanh Hư, thuộc khu di tích lịch sử - Danh thắng Côn Sơn, xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thờ Chương túc Quốc thượng hầu - Đại Tư đồ phụ chính Trần Nguyên Đán.
          Trần Nguyên Đán (1325 – 1390) hiệu là “Băng Hồ”, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Nay là xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cuộc đời, sự nghiệp ông gắn với công cuộc củng cố, xây dựng vương triều nhà Trần nửa cuối thế kỉ XIV.
          Hơn 30 năm làm quan, Trần Nguyên Đán là Tướng quốc của ba triều vua: Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông. Năm 1369, ông có công dẹp loạn Dương Nhật Lễ, giành lại vương triều Trần, lập Trần Phủ lên ngôi vua (Trần Nghệ Tông). Trần Nguyên Đán có nhiều công đóng góp trên các lĩnh vực Văn hoá, Tư tưởng, Khoa học…Ông để lại nhiều trước tác như: “Băng Hồ ngọc hác tập”, “Bách Thế thông khảo”, đến nay còn 51 bài thơ chép trong “Toàn việt thi lục”.
 

                        

                               Cắt băng khánh thành đền Thanh Hư
          Năm 1385, Trần Nguyên Đán cùng phu nhân đưa cháu ngoại Nguyễn Trãi về sống tại Côn Sơn. Ông có công nuôi dạy Nguyễn Trãi từ thủa ấu thơ. Tại Côn Sơn, ông cùng phu nhân trồng rừng thông, bãi giễ “Ông thông, Bà giễ”; và xây dựng quần thể kiến trúc trong núi được vua Trần Duệ Tông ngự bút đề tặng là “Thanh Hư Động” nghĩa là Thanh trong, Thoát tục. Động Thanh Hư là khoảng không gian thiên nhiên đẹp nhất ở Côn Sơn với nhiều hạng mục kiến trúc hoà với thiên nhiên, trong đó có các nơi “nghỉ ngơi chơi ngắm”, là thắng cảnh tiêu biểu mà từ lâu đã trở thành địa danh, di tích nổi tiếng, đi vào thi ca sử sách ở nhiều thời đại “Khói ngàn ráng đỏ như gấm cuốn, như lụa giăng, cỏ rừng, hoa suối hoặc mầu biếc đung đưa, hoặc mầu hồng rực rỡ. Cảnh mát dịu trong lành, thơm đến muốn nuốt, xinh đến muốn ăn. Phàm những cái gọi là hình trạng trong mát, tiếng vi vu xa xa mà vắng không, sâu thẳm mà lặng lẽ hợp với sự mong mỏi của tai mắt và tinh thần đều hầu như đã hoà với bầu trời mênh mông mà vui chơi ra ngoài cõi vật
          Năm 1390, Quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán tạ thế tại Côn Sơn. Vua Trần nhớ công đức của Ông, sắc chỉ cho nhân dân lập Đền, tạc tượng thờ Người Tướng quốc tại Côn Sơn. Trải qua năm tháng Đền thờ xưa không còn.
          Năm 2005, Nhà nước xây dựng đền Thanh Hư trên nền nhà cũ của ông giữa rừng tùng bách Côn Sơn đại ngàn. Đền Thanh Hư kiến trúc chữ Đinh, toà Tiền tế chồng diêm, hai tầng tám mái uy nghi. Đền tựa núi Côn Sơn, Minh đường( theo hướng đông nam) nhìn xuống hồ Côn Sơn - nơi tụ phong, tụ thuỷ, lấy núi An Lạc làm Tiền Án, dãy An Sinh thế long chầu. Trong đền hệ thống hoành phi, câu đối, đồ thờ bài trí theo lối thức cổ truyền. Gian Tiền tế bài trí ban thờ công đồng, hai bên là ban thờ gia tiên và Sơn thần. Hậu cung là ban thờ Trần Nguyên Đán. Tượng quan Tư Đồ thần thái uy nghiêm, nhân từ, vẫn nặng lòng yêu nước thương dân.
          Cạnh đền thờ là dấu tích nền nhà cũ của quan đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán, được bảo tồn nguyên trạng để giới thiệu với cho du khách thập phương về công trình kiến trúc cổ xưa của vị quan đại Tư Đồ sau khi trí sĩ tại Côn Sơn vẫn giữ khí tiết thanh cao đạm bạc.
MIẾU NGŨ NHẠC - NGŨ NHẠC LINH TỪ
Ngũ Nhạc vốn là tên gọi chung cho năm ngọn núi nổi tiếng của Trung Quốc xuất hiện từ thời Hán Vũ Đế (thế kỷ II – I TCN) là Thái Sơn Đông Nhạc, Hoành Sơn Nam Nhạc, Hoa Sơn Tây Nhạc, Hằng Sơn Bắc Nhạc và Tung Sơn Trung Nhạc.
 
          Truyền thuyết kể rằng, những ngọn núi này là những vùng đất phúc mà các thần tiên ngự trị, thưởng ngoạn phong cảnh kỳ tuyệt ở chốn trần gian. Đây là năm ngọn núi thiêng tượng trưng cho năm phương (tứ phương và trung phương) mỗi phương ứng với một hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ).
          Theo thuyết của Đạo giáo Ngũ Nhạc cũng như Tứ Độc (bốn con sông dài nhất) là hai trong số các Địa kỳ của Thiên đình Đạo giáo. Vì thế, trên mỗi đỉnh của Ngũ Nhạc đều có một nơi thờ các thần tự nhiên là Ngũ Phương Ngũ lão quân: Thanh Đế ở phương Đông, Bạch Đế ở phương Tây, Xích Đế ở phương Nam, Hắc Đế ở phương Bắc và Hoàng Đế ở Trung ương (trung tâm). Đây là hiện tượng thần linh hoá ngũ hành thành ngũ phương ngũ thần của Đạo giáo.
          Trải qua bao năm tháng cùng sự phá hoại của thời gian, mưa nắng, những miếu thờ trên đỉnh Ngũ Nhạc chỉ còn là những ban thờ lộ thiên kiến trúc đơn sơ bằng đá trát vữa vôi có hình chữ nhật với chiều dài 3 m rộng 2m cao 1m. Đây thực sự là những di tích quý giá cần được khôi phục.
          Ngày 8/8/2004, khi cùng các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Hải Dương và đại diện một số bộ, ngành của trung ương lên thăm Ngũ Nhạc, đồng chí Trương Mỹ Hoa Phó chủ tịch nước đã chỉ đạo cho Đảng bộ và nhân dân Hải Dương nghiên cứu, khẩn trương tôn tạo khu di tích độc đáo này để sớm đưa vào sử dụng, phục vụ nhân dân cả nước và phát huy ý nghĩa văn hoá sâu sắc của di tích; đồng thời giới thiệu với du khách thập phương về vốn văn hoá độc đáo của xứ Đông xưa và nay.
          Sau hơn một năm thi công, ngày 16 tháng 1 năm Bính Tuất (tức ngày 13/2/2006) lễ khánh thành năm miếu thờ trên núi Ngũ Nhạc cùng hệ thống đường bộ hành lên núi đã được tổ chức. Các ngôi miếu đều quay về hướng nam - nơi có hồ Côn Sơn quanh năm nước biếc. Công trình được thiết kế, thi công khá công phu. Tuy địa hình núi dốc, hiểm trở nhưng đã đạt cả yêu cầu về kỹ, mỹ thuật và phù hợp với cảnh quan môi trường. Đường bộ hành lên núi dài 1,8km được lát hoàn toàn bằng đá xanh Thanh Hoá, con đường ẩn mình dưới rừng thông khép tán xanh tươi, thấp thoáng những áng mây trắng nhẹ bay
          Di tích miếu Ngũ Nhạc là công trình xây dựng, tôn tạo đồng bộ từ đường bộ hành đến kiến trúc các ngôi miếu. Ở mỗi ngôi miếu đều có những mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ thuật cao. Thông qua quy mô công trình giúp ta hiểu thêm kiến trúc truyền thống, sự tinh tế trong trang trí, hợp lý trong kết cấu. Có thể nói di tích miếu Ngũ Nhạc được khôi phục khá thành công và đáp ứng nguyện vọng, tín ngưỡng tâm linh của đông đảo nhân dân. Giờ đây, bên cạnh các công trình: Chùa Côn Sơn, đền thờ Nguyễn Trãi và đền Thanh Hư, các ngôi miếu thờ Thần Năm Phương trên đỉnh núi Ngũ Nhạc đã tạo thêm những nét văn hoá tâm linh độc đáo làm hài lòng du khách thập phương đến chiêm bái khu di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng nổi tiếng Côn Sơn - Kiếp Bạc.
          Núi Ngũ Nhạc nơi có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, ngoạn mục. Rừng thông xanh bạt ngàn, suối trong róc rách quanh năm suốt tháng và khí hậu trong lành với năm ngôi miếu cổ mới được phục dựng cùng hệ thống đường dạo lát đá lên núi đáp ứng nguyện vọng, tín ngưỡng tâm linh của đông đảo nhân dân. Với nội dung lịch sử sâu sắc, trong tương lai không xa, di tích sẽ là một trong những điểm tham quan du lịch hấp dẫn  với du khách trong và ngoài nước.

HỒ CÔN SƠN
Trước núi Côn Sơn có một hồ nước trong xanh rộng mênh mông, đó chính là hồ Côn Sơn, địa danh được nhắc đến trong sách Công Dư tiệp kí của Vũ Phương Đề: “Dưới núi có một cái ao vuông, nước trong leo lẻo. Hai bên nước suối chảy qua trước núi, rồi lại vòng quanh vài dặm chảy vào con sông Cái. Lên núi ngắm trông thực không chán mắt. Quả là một cảnh lâm tuyền rất đẹp vậy”
Hồ Côn Sơn được tôn tạo năm 1998, có diện tích 43 ha, với sức chứa hàng trăm ngàn mnước. Bao quanh hồ là hệ thống đường dạo, cây cảnh. Hồ không chỉ cung cấp nước cho nông nghiệp mà còn cung cấp nguồn thuỷ sản phong phú cho địa phương.
Hồ Côn Sơn là minh đường của Ức Trai linh từ - nơi sơn thuỷ hữu tình, tụ linh, tụ phúc ban phát mọi điều tốt lành. Hồ Côn Sơn như góp phần tô điểm thêm cho vẻ đẹp hư ảo của chốn lâm tuyền. Đặc biệt, vào những ngày lễ hội, hồ Côn Sơn là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hoá như: rước nước, đua thuyền, câu cá... thu hút khách thập phương. Có thể nói, hồ Côn Sơn hiện nay và tương lai sẽ trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của khu di tích Côn Sơn.

SUỐI CÔN SƠN
Suối Côn Sơn bắt nguồn bởi 2 dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng 3km uốn lượn tạo nhiều nghềnh thác kế tiếp nhau rồi đổ ra hồ Côn Sơn.
Dòng suối hẹp, cây cối um tùm mang dáng vẻ hoang sơ, thơ mộng, là điểm dừng chân không thể bỏ qua của du khách. Suối Côn Sơn đã đi vào thơ văn Nguyễn Trãi:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Suối Côn Sơn chảy rì rào quanh năm suốt tháng, bên suối có hai tảng đá lớn tương đối bằng phẳng gọi là Thạch Bàn.

      Bác Hồ thăm suối Côn Sơn - 1965

        Suối Côn Sơn
- Thạch Bàn nhỏ: Rộng khoảng 70m2. Mặt Thạch Bàn có màu son nâu rất đẹp. Ngày 15/2/1965, Bác Hồ về thăm Côn Sơn. Bác lên núi, vào Động Thanh Hư, đến nền nhà Nguyễn Trãi và dừng chân tại Thạch Bàn này. Tại đây Bác đã căn dặn: “Cán bộ và nhân dân phải bảo vệ tốt di tích lịch sử, trồng nhiều cây để Côn Sơn trở thành nơi tùng lâm đẹp đẽ ”.
- Thạch Bàn lớn: Rộng khoảng 200m2 về phía thượng nguồn được gọi là "Hòn đá năm gian". Nơi xưa, Nguyễn Trãi thường ngồi ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước. Trong những năm tháng theo Lê Lợi đánh giặc Nguyễn Trãi thường mơ trở về Côn Sơn, gối đầu ngủ trên Thạch bàn:
Bao giờ dưới núi mây về ở
Nước suối chè xanh, ngủ thạch bàn
 
BÃI RỄ THANH HAO

Bãi rễ nằm ở phía nam chân núi Côn Sơn diện tích khoảng 15ha. Cây thanh hao cứ héo rồi lại xanh tiếp nhau phủ kín diện tích rộng lớn ấy, năm này qua năm khác mà chẳng ai phải mất công chăm sóc. Các bậc bô lão trong vùng không biết bãi rễ có tự bao giờ, chỉ biết là lớn lên đã thấy bãi rễ xanh tốt mênh mông cả một vùng.

               Theo truyền thuyết của nhân dân địa phương sau khi cáo quan về trí sĩ ở Côn Sơn, Tư đồ Trần Nguyên Đán đã trồng rất nhiều thông ở trên núi Côn Sơn. Sau này cây lớn tạo thành rừng thông đại ngàn. Vợ ông thì cấy rễ, đem màu xanh cây thanh hao phủ lên khắp vùng đất hoang ở dưới chân núi Côn Sơn. Đời này qua đời khác, cây rễ mọc lan, phát triển lên Bãi rễ này. Vì thế cây thông, cây rễ đã gắn liền với đất Côn Sơn trong câu nói cửa miệng từ ngày xưa “ông trồng thông, bà cấy rễ”. Trong sách “Những cây thuốc Việt nam” của dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã viết về cây rễ như sau: “Cây thanh hao dùng để chỉ cây chổi sể. Cây này có nhiều cành, có thể cao tới 2m, cành rất nhỏ, lá mọc đôi, hình lá kim dài chừng 1cm, có những hạch màu nâu. Hoa nhỏ trắng mọc đơn độc ở kẽ lá…Trong cây có tinh dầu màu vàng, gần như tinh dầu khuynh dầu tinh diệp. Nhân dân thường lấy về làm chổi quét nhà. Lá dùng cho vào chum vại đựng đậu xanh hay để quần áo, tránh nhậy và sâu bọ cắn hại. Người ta đau bụng thường nằm trên chiếc võng thưa, đốt cây chổi rễ”. Như vậy, cây thanh hao ngoài lợi ích về mặt kinh tế còn có giá trị về mặt y học.

                 Hiện nay, Bãi rễ được khoanh vùng bảo vệ là một di tích về danh nhân Trần Nguyên Đán. Bên cạnh giá trị  về lịch sử, văn hóa Bãi rễ có cảnh quan tươi đẹp, không gian mênh mông, mịn màng như tấm thảm xanh trải dài dưới chân núi càng tăng thêm vẻ hiền hoà, quyến rũ chắc chắn sẽ trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng tuyệt vời của du khách khi đến di tích Côn Sơn.

GIẾNG NGỌC
 

Dưới chân tháp tổ Huyền Quang là Giếng Ngọc, nước trong vắt mát lạnh. Người xưa cho rằng, Giếng Ngọc là huyệt mạch của núi Côn Sơn và là mắt của con Kỳ Lân.
 Tương truyền, đêm rằm tháng bảy, sư tổ Huyền Quang mơ thấy vị thần dẫn đi về phía sau chùa chỉ cho viên ngọc sáng lấp lánh dưới chân núi.
Khi nhà sư cúi xuống xem thì chuông chùa vang lên làm Ngài tỉnh giấc. Ngẫm lại giấc mơ, thiền sư cùng sư tăng lên xem, khi phát quang bụi rậm thấy hiện ra dòng nước. Nhà sư uống thử thấy nước mát ngọt bèn cho khơi sâu, kè đá thành giếng. Nước giếng bốn mùa đầy, xanh trong nhìn thấu đáy. Sư tổ Huyền Quang đặt tên là Giếng Ngọc. Nước Giếng Ngọc được dùng làm nước cúng và làm lễ mộc dục (tắm tượng) tại chùa Côn Sơn. Dân gian truyền rằng nước Giếng Ngọc thanh trong tẩy sạch bụi trần, ban phúc lành cho mọi chúng sinh. Bởi vậy, du khách khi đến Côn Sơn đều không quên lên thăm Giếng Ngọc, lấy nước để uống cho vơi đi mọi nỗi phiền muộn và hy vọng dòng nước sẽ mang đến cho bản thân sức khoẻ dồi dào. Năm 1995, Giếng Ngọc được tôn tạo lại, thành giếng kè đá hộc, hai bên đắp sư tử nằm phủ phục canh giữ “viên ngọc quý, mãi long lanh toả khí thiêng bao trùm trời đất.
AM BẠC VÂN - BÀN CỜ TIÊN
Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên.
 Ở đây phát lộ nền một kiến trúc cổ, hình chữ Công. Qua khảo cứu, đó là dấu tích của Am Bạch Vân. Am Bạch Vân (có nghĩa là am mây trắng) để giải thích về am tu hành ở đỉnh núi Côn Sơn thường có mây trắng bao phủ. Đỉnh núi là nơi Trời - Đất giao hòa, thần tiên chọn làm nơi giao tiếp với hạ giới.
Vào những ngày mây trắng bao phủ, tiên trên trời thường bay xuống đánh cờ trên đỉnh Côn Sơn. Một hôm đang mải mê đánh cờ, bỗng nghe có tiếng người ồn ào, các vị liền bay đi để lại bàn cờ đang đánh dở, nên có tên gọi là Bàn cờ tiên.
Hiện nay trên Am Bạch Vân có dựng một nhà bia theo kiểu vọng lâu, hai tầng tám mái cổ kính. Ở đây, du khách có thể nhìn về bốn phía bao quát trong tầm mắt cảnh núi sông hùng vĩ. Từ Chùa Côn Sơn lên Bàn Cờ Tiên có hàng trăm bậc đá từ nhiều thế kỷ trước, nay đã được khôi phục gồm trên 600 bậc.

ĐĂNG MINH BẢO THÁP - THÁP TỔ HUYỀN QUANG
Sau khi Sư Tổ Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn (1334), Vua Trần Minh Tông cúng dường 10 lạng vàng xây tháp cho thiền sư, lấy tên là Đăng Minh Bảo Tháp, đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả. Trải qua thời gian tháp đã bị huỷ hoại. Năm Kỷ Hợi (1719), nhà sư Hải Ấn xây dựng lại Đăng Minh bảo tháp “…Một sớm khởi công, muôn người xúm lại, thay gạch ngói cổ bằng đá quý đẹp hơn”.
          Năm 1979, Bảo tàng Hải Dương đã phát hiện dưới chân tháp Đăng Minh kết cấu cây tháp bằng đất nung ba tầng. Theo các nhà khoa học đây là tháp Huyền Quang được dựng sau khi Thiền sư mất. Hiện nay trong nhà trưng bày Côn Sơn có hiện vật bảo tàng phục dựng lại ½ tầng tháp dưới, theo kiểu cắt dọc, qua đó có thể hình dung được toàn bộ ngôi tháp.
 Đăng Minh Bảo Tháp hình chữ nhật, 3 tầng cao khoảng 5m được ghép bởi những phiến đá xanh, lên cao tháp thu nhỏ dần. Tầng giữa khắc nổi bốn chữ Đăng Minh bảo tháp, mặt sau khắc bài minh ca ngợi Huyền Quang. Trong lòng tháp đặt pho tượng Huyền Quang bằng đá ngồi kiết già, tay kết ấn tam muội (hiện pho tượng đã được chuyển về tổ đường chùa Côn Sơn ). Đăng Minh bảo tháp với dáng đậm, chắc, thế vững chãi uy nghi trong không gian bao la giữa đại ngàn Côn Sơn.
NỀN NHÀ NGUYỄN TRÃI
Phía sau công trình đền thờ Trần Nguyên Đán 200m, là dấu tích nền nhà cũ của Anh hùng dân tộc – danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Nơi đây, hơn 500 năm trước (từ năm 1435 – 1442) Nguyễn Trãi đã về đây nương theo sườn núi, lấy cây rừng đá núi dựng nên nếp nhà đơn sơ nhưng ấp ủ trong đó là một con người có tâm hồn, nhân cách, tài năng vĩ đại. Mừng ngôi nhà mới của Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân - một người bạn đương thời của ông đã viết:
“Nhất điều thuỷ lãnh tri tam quán
Tứ bích gia bần phú lục kinh”
(Nghĩa là: nhà của quan Tri Tam lạnh lẽo như một dòng suối, bốn vách xác sơ chỉ có sách là giàu). Ở đây ông vui với cảnh thiên nhiên, rừng núi Côn Sơn và sáng tác bài Côn Sơn ca bất hủ.
 Hiện nay, dấu tích ngôi nhà xưa chỉ còn lại nền nhà bằng phẳng dài 17m rộng 7m nằm bên cạnh Thạch Bàn. Di tích này đã được phát hiện từ năm 1979.
Năm 2000, Bảo tàng Hải Dương tiến hành đào một hố thám sát khảo cổ rộng 3m2 theo hướng Đông Tây (1m x 3m). Hố thám sát kết thúc ở độ sâu 70 cm. Trong hố tìm được một số mảnh ngói Trần và Lê và nhiều cục than cháy. Năm 2005, ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã tôn tạo khu vực nền nhà Nguyễn Trãi, kè đá xung quanh và xây dựng một nhà bia ghi dấu ấn di tích nền nhà cũ của Nguyễn Trãi.

ĐỀN KIẾP BẠC - VẠN KIẾP LINH TỪ
Đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của Quốc gia, thời Trần thuộc hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang. Thời Lê, Nguyễn thuộc trấn Kinh Bắc, nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
 
Kiếp Bạc có vị trí đặc biệt về giao thông cũng như quân sự. Ở đây có sông Lục Đầu, chảy qua phía Tây khu di tích. Trong một đoạn sông dài 10 km, có 6 dòng sông hợp lưu: Sông Lục Nam, sông Thương,sông Cầu,sông Đuống, chảy từ phía Tây Bắc về, đổ xuống hai dòng hạ lưu là Kinh Thầy và Thái Bình để ra biển phía Đông Nam. Đây là nguồn cung cấp nước, chuyển tải phù sa cho đồng ruộng, nguồn thuỷ sản tự nhiên vô cùng phong phú cho một vùng rộng lớn của Đông Bắc châu thổ Bắc Bộ. Về phương diện giao thông, có thể nói đây là những con đường cao tốc thời phong kiến, góp phần quan trọng về giao thương kinh tế, quân sự, kiến tạo nên những thành tựu văn hoá một thời.
Kiếp Bạc có núi Rồng hình tay ngai, bao bọc những thung lũng của sông Thương ăn sâu vào hẻm núi, có thể tập kết hàng nghìn chiến thuyền trước khi xông trận. Trên các đỉnh núi có thể quan sát một vùng sông nước làng mạc bao la, tạo thế chủ động cho quân sĩ khi tiến công cũng như lui. Phía bắc là hệ thống núi rừng trùng điệp, nơi có thể giấu hàng vạn quân, lập căn cứ an toàn, phía nam có làng mạc trù phú, lắm của nhiều người, là nguồn cung cấp nhân tài vật lực to lớn cho chiến tranh.
Kiếp Bạc còn như một nơi cửa rừng, nơi giao thương lâm, thổ sản từ phía Bắc xuống; nông, hải sản từ phía nam lên. Vì thế mà, suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, Kiếp Bạc luôn là vị trí trọng tâm của một vùng chiến lược. Kiếp Bạc không chỉ là một cảnh quan hùng vĩ, một vị trí có tầm chiến lược, mà còn là một vùng sơn cước giàu có. Chẳng phải ngẫu nhiên mà từ sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), Trần Hưng Đạo đã đóng đại bản bản doanh và phủ đệ tại Vạn Kiếp. Đặc biệt, sau ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông toàn thắng, Trần Hưng Đạo đã sống những năm tháng thanh bình và mất tại đây ngày 20 tháng 8 năm 1300.
Do có công lao to lớn đối với dân tộc trong sự nghiệp giữ nước, nên ngay lúc sinh thời, Trần Hưng Đạo đã được lập đền thờ, gọi là sinh từ. Sau khi mất, ông được triều đình phong tặng: “Thái sư thượng phụ Quốc công Tiết chế, Nhân võ Hưng Đạo đại vương”. Vua Trần Thánh Tông tự soạn văn bia ca ngợi công đức của ông, dựng lại sinh từ. Nhân dân suy tôn ông là bậc Thánh nhân, đời đời tôn kính. Đền thờ ông được tôn tạo tại một khu đất rộng, ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc, nhìn hướng Tây, hướng kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến. Trước đền là dòng Lục Đầu giang hùng vĩ...
Tháng 2 năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh đang ở giai đoạn quyết liệt. Lê Lợi cho Dương Thái Nhất sửa chữa đền, cấm chặt cây ở khu di tích, để tỏ lòng biết ơn tiền nhân đã có công bảo vệ giang sơn, đất nước, đồng thời cũng là một cách biểu thị niềm tin tất thắng với nhân dân.
Qua nhiều thế kỷ gió mưa và binh lửa, các công trình kiến trúc ở Kiếp Bạc từ thời Trần đến thời Lê đã bị huỷ hoại: cây cảnh, rừng gỗ quý và vườn thuốc nam không còn; những công trình hiện diện đều được tái tạo vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Theo văn bia “Vạn Yên Dược Sơn linh từ bi ký” (1879) và bia “Trùng tu tiểu ký” (1895) cho biết ngôi đền này được đại trùng tu vào năm 1876, 1879, 1895. Quy mô xây dựng của lần trùng tu đó không còn đầy đủ: Trung từ và tả hữu vu đã bị giặc Pháp đốt phá, chỉ còn hậu cung, đại bái và cổng đền.
Các công trình kiến trúc đền Kiếp Bạc lấy núi Trán Rồng làm khởi điểm (dương) phát triển ra đê sông Lục Đầu (âm), bố cục theo luật đối xứng tuân thủ nguyên tắc âm dương ngũ hành, bát phương ngũ sắc…mang phong cách cung đình gồm: Thần đạo, Nghi môn, Tả hữu thành các, giếng mắt rồng, nhà Bạc, tả hữu giải vũ, đền chính…
Nghi môn đền là công trình kiến trúc đồ sộ hoành tráng, thiết kế kiểu cổng thành dạng bức cuốn thư với ba cửa vòm và hai trụ biểu lớn. Đay là bức tranh sinh động hội đủ tứ linh, tứ quý, khái quát cả âm dương, trời đất, thiên nhiên, con người nơi đất thánh. Qua nghi môn là tả hữu Thành các. Công trình được xây dựng thời Nguyễn, có ý nghĩa là nơi dừng chân, tu chỉnh khăn áo của các đoàn rước trong các ngày trọng hội. Trong sân là giếng mắt Rồng. Giếng nằm ở trung tâm thung lũng dãy núi Rồng do mạch nước ngầm từ núi chảy ra. Tường truyền, giếng xây dựng từ thời Trần, gắn với tên tuổi của danh tuớng Yết Kiêu - Người có công tìm và phát hiện ra nguồn nước. Nước giếng thơm và trong mát tiếp thêm sức mạnh cho quân sĩ khi ra trận. Giữa sân là nhà Bạc. Công trình nằm trên đường thần đạo, là cầu nối giữa nghi môn và đền chính, mang ý nghĩa như một tắc môn chắn tà khí cho Đền. Đây là nơi tổ chức các nghi lễ trọng thể của Nhà nước dang hương tưởng niệm Đức Thánh Trần.
Qua năm bậc thềm tượng cho ngũ phúc (phú, quý, thọ, khang, ninh) vào đền chính. Đền chính gồm: Tiền tế, trung từ, hậu cung.
Toà tiền tế có ban thờ công đồng Trần triều. Trung từ có đặt bài vị thờ bốn con trai của Trần Hưng Đạo là:
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn.
- Hưng Hiến Vương Trần Quốc Uy
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện
Cả bốn vị đều là các danh tướng cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.
Gian giữa trung từ là nơi thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão. Hai bên là ban thờ Nam Tào - Bắc Đẩu.
Tại gian hậu cung có 4 pho tượng bằng đồng, sơn son thiếp vàng, đúc vào cuối thế kỷ XIX, theo thứ tự từ trong ra ngoài, từ phải sang trái, là:
- Đệ nhất Khâm từ Hoàng Thái hậu Quyên Thanh công chúa (con gái thứ nhất – Hoàng hậu của vua Trần Nhân Tông).
- Đệ nhị nữ Đại hoàng Anh Nguyên quận chúa (con gái thứ hai – phu nhân Phạm Ngũ Lão).
- Nguyên từ Quốc mẫu Thiên Thành công chúa.
- Hưng Đạo Đại Vương.
Trong đền còn lưu giữ nhiều hiện vật, cổ vật quý như hoành phi, câu đối, bia đá,… đặc biệt là bộ ấn của Đức Thánh Trần. Du khách hành hương về đền Kiếp Bạc đều mong xin được dấu ấn nhà ngài, mang bên mình cầu an.
Tại đền Kiếp Bạc lễ hội diễn ra từ đầu tháng 8, du khách trảy hội về đây từ mọi ngả đường, trên bến dưới thuyền tấp lập người xe nô nức đông vui. Xưa kia vào ngày kỵ Trần Hưng Đạo các quan trong triều đình đều đến đền Kiếp Bạc vào dâng hương. Lễ chính vào ngày 20 tháng 8 dân chủ sự vẫn là làng Vạn Yên và Dược Sơn xã Hưng Đạo. Sau các nghi lễ như: rước bộ, tế , hầu bóng, ban ấn... là các sinh hoạt văn hoá vui chơi như: bơi chải, đua thuyền, cờ người, cờ tướng, hội vật, hát quan họ...

CHÙA ĐỀN NAM TÀO
Chùa - đền Nam Tào nằm trên dãy núi Dược Sơn (còn gọi là núi Nam Tào) thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hiện nay không còn tư liệu thành văn (thư tịch, bi ký)... nào tồn tại để giúp chúng ta biết được niên đại và kiến trúc của đền - chùa Nam Tào trong quá khứ, qua điền dã, khảo sát và được người dân địa phương cung cấp rất nhiều thông tin có giá trị chúng tôi được biết chùa - đền Nam Tào (trước khi bị thực dân Pháp tàn phá năm 1947) được xây dựng theo hình chữ Đinh gồm tiền từ và hậu cung, các cấu kiện của chùa - đền Nam Tào đều được làm bằng gỗ lim, lợp ngói mũi. Chùa - đền xây dựng theo hướng Tây nam, soi mình xuống dòng sông Lục Đầu. Hiện nay nền móng của các công trình này vẫn còn nằm sâu dưới lòng đất khoảng trên dưới 1 m. Ngoài ra, còn có nền móng của gác chuông 2 gian tả, hữu vu hiện nay được xây dựng đúng trên nền móng của của hai bên tả hữu vu trước đây. Phía ngoài cổng đền là nghi môn (hiện còn 1 cột đồng trụ  bằng gạch cao khoảng 4 m ), các cụ cao niên cho biết Nghi môn đền Nam Tào có kiến trúc giống như Nghi môn của đền Kiếp Bạc nhưng quy mô nhỏ hơn.
Trước kia còn 5 gian tiền từ thì tượng Nam Tào đặt ở đó, gian hậu cung đặt tượng thờ phật theo kiểu ''tiền thần hậu phật''. Chùa thờ phật, thờ Mẫu và đặc biệt trong chính điện có phối thờ thần Nam Tào. Sự tích kể rằng: Trên núi Nam Tào (Dược Sơn) có một ngôi chùa. Trong chùa có một ông lão biết đoán điều may rủi, lời nói thường hiệu nghiệm, người bốn phương đến cầu xin rất đông. Về sau không biết đi đâu, chỉ thấy trên vách có đề câu: “Nam Tào thượng Linh Tiêu” có nghĩa là Thần Nam Tào về điện Linh Tiêu trên Thiên Đình. Sau đó người ta lập đền thờ tại đây gọi là đền Nam Tào. Để hiểu được bản chất của hiện tượng thờ thần Nam Tào, phải đặt chùa - đền Nam Tào với chùa - đền Bắc Đẩu trong tương quan với đền Kiếp Bạc nơi thờ phụng người anh hùng Trần Hưng Đạo.
Như đã biết, trong văn hoá tâm linh Phương Đông, Nam Tào - Bắc Đẩu là 2 vị thần của đạo giáo. Nam Tào còn gọi là thần sinh, coi sự sống ở phương nam. Bắc Đẩu là vị thần tử, coi về sự chết ở phương bắc. Ở các đạo quán hay ở nhiều ngôi chùa Việt thường có tượng hai vị thần này là được đặt bên Ngọc Hoàng thượng đế, trong đó tượng thần Nam Tào đặt bên tả, tượng thần Bắc Đẩu đặt bên hữu. Việc xuất hiện đền thờ quan Nam Tào trên núi Dược Sơn cùng quan Bắc Đẩu trên núi Vạn An đứng đối xứng nhau cùng chầu vào đền Kiếp Bạc - Nơi thờ phụng Đức Thánh Trần đã được nhân dân suy tôn là Ngọc Hoàng Thượng đế chứng tỏ sự tôn vinh, ngưỡng vọng của nhân dân đối với Trần Hưng Đạo, tôn ông là vị Thánh sánh với Ngọc Hoàng thượng đế trên thiên đình. Bộ ba đơn nguyên Nam Tào - Trần Hưng Đạo- Bắc Đẩu xuất hiện dưới hạ giới là hiện tượng hiếm thấy, mang đậm mầu sắc đạo giáo.
Năm 1947, Thực dân Pháp đánh phá các di tích trong đó có chùa - đền Nam Tào, cả công trình kiến trúc quy mô lớn như vậy bị tàn phá chỉ còn đống gạch vụn, nhân dân phải đem tượng thờ quan Nam Tào và quả chuông đồng gửi ở đền Kiếp Bạc .
Nhờ sự quan tâm của các cấp chính quyền và sự cố gắng của nhân dân địa phương, di tích được khôi phục lại vào năm 1989, công trình được xây dựng trên nền móng của gian hậu cung trước đây, còn gian tiền từ trước kia đã trở thành sân đền, hai gian tả hữu vu cũng được xây dựng lại.
Tháng 12 năm 2005, Viện khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc tiến hành khai quật khảo cổ học tịa di tích Nam Tào. Kết quả bước đầu đã xác định được nền móng toà tiền tế, chân móng một số công trình phụ cận của chùa Nam Tào và nhiều hiện vật, di vật có niên đại thời Trần, Lê. Dựa trên các cứ liệu khảo cổ học, tháng 1 năm 2007, Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã tiến hành trùng tu, tôn tạo chùa - đền Nam Tào với hàng chục hạng mục công trình như cổng đền, tả hữu vu, đền chính, các công trình phụ trợ…

CHÙA ĐỀN BẮC ĐẨU
Chùa - đền Bắc Đẩu thuộc thôn Bắc Đẩu, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Chùa - đền Bắc Đẩu nhìn hướng Tây nam (cùng hướng với đền Kiếp Bạc - quẻ tốn). Sau lưng gối núi Bắc Đẩu (tay ngai bên hữu của dãy núi Rồng), phía trước nhìn ra sông Thương (nơi sơn triều thuỷ tụ).
 
Chùa - đền Bắc Đẩu nằm trong một quần thể các di chỉ, di tích thời Trần, từ trên núi Bắc Đẩu có thể bao quát cả một khu vực rộng lớn xung quanh: toàn cảnh đền Kiếp Bạc, sông Thương. Phía bắc chùa - đền có thung lũng Vạn Yên, một cánh đồng rộng và lưu giữ khá nhiều dấu tích gắn liền với cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông vĩ đại của dân tộc như: Sông Vang, Xưởng Thuyền, Hành Cung, có xóm Hống - một trung tâm sản xuất gốm thời Trần -  Lê sơ ... phía nam là thung lũng đền Kiếp Bạc, Hang Tiền. Phía đông xa hơn về hai mạn Bắc Nam là hai dãy Kỳ Lân và Phượng Hoàng, bộ phận kéo dài của dãy Yên Tử đổ về bao bọc khu vực Kiếp Bạc.
 Cùng với dòng chảy lịch sử chùa - đền Bắc Đẩu cũng chịu tác động mạnh mẽ của các biến cố lịch sử, sự bao trùm của các lớp văn hoá qua các thời kỳ. Những cứ liệu xa xưa về di tích lịch sử quá ít ỏi chỉ có thể nhận biết được một số nét khái quát về ngôi chùa vào những thập niên 30 - 40 của (thế kỷ XX).
 Chùa thờ phật, thờ mẫu và đặc biệt trong chính điện có phối thờ thần Bắc Đẩu. Về sự tích thờ thần Bắc Đẩu, một số tư liệu Hán nôm như: ''Hải Dương phong vật chí'', ''Lục Nam địa chí '' có chép như sau: Vạn Kiếp có núi Bắc Đẩu . Tục truyền có nhà buôn đêm đỗ thuyền ở dưới núi nghe thấy tiếng người nói về sự thiện ác, thọ yểu của nhân gian đến lúc gà gáy bỗng nổi cơn gió lớn, mây hống nổi lên văng vẳng có tiếng vòng ngọc rồi thấy một người cao lớn trên đỉnh núi đội mũ sao, mặc áo vóc, ngồi xe mây bay thẳng lên trời. Sớm hôm sau thuật lại truyện như thế, thổ dân bèn dựng đền ở đấy để thờ phụng gọi là đền Bắc Đẩu.
Để hiểu được bản chất của hiện tượng thờ thần Bắc Đẩu, phải đặt chùa - đền Bắc Đẩu với chùa Nam Tào trong tương quan với đền Kiếp Bạc nơi thờ phụng người anh hùng Trần Hưng Đạo.
Như đã biết văn hoá tâm linh Phương Đông Nam Tào - Bắc Đẩu là 2 vị thần của đạo giáo. Nam Tào còn gọi là thần sinh, coi sự sống ở phương nam. Bắc Đẩu là vị thần tử, coi về sự chết ở phương bắc. Ở các đạo quán hay ở nhiều ngôi chùa Việt thường có tượng hai vị thần này là được đặt bên Ngọc Hoàng thượng đế, trong đó tượng thần Nam Tào đặt bên tả, tượng thần Bắc Đẩu đặt bên hữu.
Tại Kiếp Bạc, chiếm vị trí trung tâm là Trần Hưng Đạo, tả hữu là hai ngôi chùa phối thờ thần Nam Tào và thần Bắc Đẩu. Thực chất  bộ ba này là một đơn nguyên lớn của đạo giáo mà ở đó vị trí của Đức Thánh Trần đã được đưa lên vị trí cao nhất: Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Từ lâu, trong tâm thức dân gian Đức Thánh Trần không phải là một con người trần tục và xuất thân từ thượng giới. Điều đó thể hiện trước tiên thể hiện qua những truyền thuyết dị thường đậm chất đạo giáo. Trong Việt Điện u linh, Trần triều hiển thánh, Nam Hải dị nhân.... đều có chép sự xuất thế của Trần Hưng Đạo là do vị Thánh Thanh Tiên đồng tử đầu thai xuống hạ giới.
Cũng theo truyền thuyết dân gian, sau khi hoàn thành nhiệm vụ Thanh Tiên đồng tử trở về trời và được phong là Cửu Thiên Vũ Đế với sứ mệnh diệt trừ yêu ma tà đạo ở cả 3 cõi: Thiên đình, trần gian và âm phủ. Nhưng trong tâm thức dân gian người được phong là Ngọc Hoàng Thượng đế cai trị chốn trần gian có quan Nam Tào, Bắc Đẩu giúp việc. Đã có một thời người ta cho rằng di tích Nam Tào có thể là nơi thờ Yếu Kiêu còn di tích Bắc Đẩu là nơi thờ Dã Tượng, hai người tướng trung thành của Trần Hưng Đạo.
Do vậy, có thể cho rằng sau khi Trần Hưng Đạo mất cùng với việc dựng đền Kiếp Bạc, nhân dân đã lập chùa trên núi Dược Sơn và núi Bắc Đẩu ngày nay trong đó phối thờ thần Nam Tào, thần Bắc Đẩu và coi đó là những vị thần giúp việc cho Đức Thánh Trần. Cũng không ngoại trừ giả thiết, trên núi Bắc Đẩu (ngày nay) đã từng cho một ngôi chùa cổ thờ phật, nhưng phải đến khi lập đền Kiếp Bạc hoặc ở giai đoạn muộn hơn với sự phát triển của tín ngưỡng Đức Thánh Trần, nhân dân đã phối thờ hai vị thần này trong chùa. Tại di tích chùa Nam Tào đã phát hiện những dấu vết kiến trúc thời Trần.
Với vai trò của một dòng đạo giáo Việt Nam, là hiện thân của Ngọc Hoàng Thượng đế cai trị chốn nhân gian, Đức Thánh Trần cần có sự giúp việc của hai vị thần Nam Tào, Bắc Đẩu. Do vậy, sự xuất hiện của hai vị thần này trong hai ngôi chùa ở thế chầu vào đền Kiếp Bạc chính là thể hiện tâm nguyện đó của dân gian.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, chùa - đền Bắc Đẩu có kiến trúc hình chữ Đinh, không gian thoáng đãng với một số công trình chính như tiền đường, chính điện, nhà tổ, cung thờ tam toà Thánh Mẫu. Trong chính điện tượng thờ được bài trí theo trật tự "tiền thần hậu phật" ở gian chính điện có tượng thờ quan Bắc Đầu bằng đồng. Trong kháng chiến chống Pháp, nhận thấy núi Bắc Đẩu có vị trí chiến lược quan trọng, thực dân Pháp đã đốt chùa, chặt cây rừng dựng bốt để trấn giữ con đường thuỷ (sông Thương).
Trước tình hình đó, nhân dân địa phương đã chuyển tượng thần Bắc Đẩu vào đền Kiếp Bạc trong suốt một thời kỳ dài hơn 30 năm, trên nền móng cũ của chùa Bắc Đẩu là một khu hoang phế. Năm 1989, được sự hỗ trợ kinh phí của UBND tỉnh Hải Dương, nhân làng Vạn Yên đã dựng lên kiến trúc 3 gian trên nền móng cũ của chính điện xưa và gọi là "Bắc Đẩu cung". Thần Bắc Đẩu được dân làng rước ra đây để thờ phụng. Về cơ bản chùa được dựng trên nền móng cũ nhưng toạ lạc trên một không gian hẹp diện tích khoảng 1600mvới một số công trình chính: Bắc Đẩu cung, cung thờ tam toà Thánh Mẫu, cung thờ Ngũ vị tôn ông. Trong chùa tượng được bài trí theo trật tự "tiền thần hậu phật". Thần Bắc Đẩu được đặt ở gian chính giữa, phía sau là ban thờ phật.
Tháng 12 năm 2005, Viện khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc tiến hành khai quật khảo cổ học tịa di tích Bắc Đẩu. Kết quả bước đầu đã xác định được nền móng toà tiền tế, chân móng một số công trình phụ cận của chùa Bắc Đẩu và nhiều hiện vật, di vật có niên đại thời Trần, Lê. Dựa trên các cứ liệu khảo cổ học, tháng 1 năm 2007, Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã tiến hành trùng tu, tôn tạo chùa - đền Bắc Đẩu với hàng chục hạng mục công trình như cổng đền, tả hữu vu, đền chính, các công trình phụ trợ…
Hiện nay, lễ hội chùa - đền Bắc Đẩu gắn liền với các hoạt động của lễ hội Kiếp Bạc. Vào ngày 20 tháng 8 và 28 tháng 9 âm lịch hàng năm, nhân dân tổ chức rước lễ từ các giáp ra đền Kiếp Bạc tiến hành tế lễ, sau đó rước về chùa - đền Bắc Đẩu.
LỤC ĐẦU GIANG
Lục Đầu Giang hay Sông Lục Đầu ở đây là đoạn cuối của sông Thương có chiều dài hơn 10 km, chỗ rộng nhất hơn 1 km chảy sát qua mé Tây Nam đất Vạn Kiếp.
Gọi là Sông Lục Đầu vì đoạn sông này phía trên nhận nước của ba con sông, Sông Cầu, Sông Thương, và sông Lục Nam, phía dưới hợp với Sông Đuống rồi đổ ra biển đông bằng hai dòng sông lớn là sông Thái Bình và sông Kinh Thầy. Vũ Phương Đề trong sách Công dư tiệp kí có chép về sông Lục Đầu như sau:  “Sông Lục Đầu ở huyện Chí Linh, giáp các huyện Phượng Nhãn, Yên Dũng, Quế Dương và Gia Định. Một chi từ sông Phượng Nhãn đi xuống, một chi từ sông Xương Giang đi tới, hội lại thành ngã ba sông, một chi từ sông Như Nguyệt đi xuống. Một chi từ sông Tam Giang đi lại gặp nhau ở sông Bình Than. Sông này trong sạch, nước thơm ngon người ta gọi là nước Bình Than. Các ngọn sông hội lại ở sông Triều Dương làm ra một khúc sông rất rộng lớn. Ở đấy lại chi thành hai chi: Một chi chảy đến bến đò Bàn Khê rồi đi về phía Nam, một chi chảy đến vũng Trần Xá rồi đi về phía Đông. Tất cả 6 chi ấy làm thành sông Lục Đầu. Giữa sông có bãi cát gọi là bãi Đại Than. Các nhà phong thuỷ gọi kiểu đất "lục long tranh châu" (sáu con rồng tranh nhau một hòn ngọc)”.
Một dòng sông toả đi sáu ngả, Lục Đầu lúc nào cũng mênh mang sóng nước vô bờ. Đây là nguồn cung cấp nước, chuyển tải phù sa cho đồng ruộng, nguồn thuỷ sản tự nhiên vô cùng phong phú cho một vùng rộng lớn của đông bắc châu thổ Bắc Bộ. Ngoài ra, sông Lục Đầu có vai trò quan trọng về giao thông thuỷ bộ, góp phần quan trọng vào giao thương kinh tế, quân sự: người ở các miền Thái Nguyên, Bắc Cạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc xuôi theo dòng sông Cầu (Nguyệt Đức) về Vạn Kiếp. Người ở vùng Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang theo sông Thương nước chảy đôi dòng, theo sông Lục Nam mà xuống nơi đây. Cùng với nhân dân miền ngược, người ở các tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh theo sông Đuống mà về Vạn Kiếp rất thuận lợi. Dòng sông Đuống (còn gọi là Thiên Đức) nối liền sông Hồng và sông Lục Đầu, hẳn là đường giao thông quan trọng từ kinh đô Thăng Long đến Vạn Kiếp, cũng tức là miền Đông bắc nước ta thời xưa. Người ở Hải Phòng, Quảng Ninh ngược nước Kinh Thầy. Rồi người Thái Bình, Hưng Yên thì lênh đênh sóng nước hệ sông Thái Bình để về Vạn Kiếp.
Vì thế mà, suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, Lục Đầu giang luôn là vị trí trọng tâm của căn cứ địa Vạn Kiếp. Năm 1283, Hưng Đạo Vương đã tổ chức một cuộc hội quân lớn 20 vạn quân, hơn một nghìn chiến thuyền đến họp ở Vạn Kiếp, để chống quân Nguyên Mông. Năm 1285, tại dòng sông Lục Đầu đã diễn ra trận Vạn Kiếp lịch sử, khiến Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn về nước. Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ 2.
Sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông đem lại thái bình cho đất nước. Hưng Đạo Vương về nghỉ tại thái ấp của ông ở Vạn Kiếp.
Một hôm, ông cùng gia nhân dùng thuyền nhỏ đi dạo cảnh trên dòng sông Lục Đầu. Khi con thuyền đã quay về gần núi Dược Sơn, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền lại, đứng trên mũi thuyền Người rút thanh kiếm của mình ra khỏi bao và nói: “Thanh gươm này đã gắn bó với ta gần cả cuộc đời. Trong suốt cuộc chinh chiến nó đã dính bao máu giặc Thát, nó đã từng được bôi phân gà với vôi tôi và bồ hóng để chém đầu tên giặc Phạm Nhan dơ bẩn. Nay ta muốn nhờ dòng nước sông Lục Đầu để gột rửa sạch nhứng vết nhơ trên nó”. Nói rồi, Người ném thanh gươm xuống dòng sông.
Tương truyền, tại khúc sông Trần Hưng Đạo thả kiếm, sau này đã hình thành một bãi bồi chạy dài rất giống hình thanh kiếm, dân gian gọi đó là Cồn Kiếm. Bãi bồi ngày nay vẫn còn trên dòng sông Lục Đầu trước cửa đền Kiếp Bạc.
Thực ra huyền thoại “bãi kiếm thần” của Trần Hưng Đạo, muốn nhờ sóng nước Lục Đầu gột rửa chiến tranh để giữ vững thái bình.
Hiện nay, tại dòng Lục Đầu giang vẫn diễn ra nhiều hoạt động nghi lễ gắn với lễ hội Kiếp Bạc như: Bơi chải, lễ cầu siêu và thả hoa đăng, đặc biệt là lễ hội quân trên sông Lục Đầu với 100 chiếc thuyền lớn tham gia, đã trở thành nét đặc trưng của lễ hội mùa thu Kiếp Bạc.
 
VƯỜN THUỐC CỔ NÚI DƯỢC SƠN - DƯỢC LĨNH CỔ VIÊN
Núi Dược Sơn- còn gọi là Dược Lĩnh cổ viên- là một trong những "bát cổ" của đất Chí Linh xưa. Địa thế như rồng uốn khúc từ trên núi xuống giống hình tay ngai.
Trong sách "Đại Nam nhất thống chí" phần tỉnh Hải Dương có chép về địa thế của núi Dược Sơn như sau: "Núi Dược Sơn ở cách huyện Chí Linh 19 dặm về phía Bắc, tiếp nối với núi Vạn Yên, thuộc huyện Phượng Nhỡn tỉnh Bắc Ninh, dưới núii có động Nam Tào, đối diện với động Bắc Đẩu núi Vạn Yên". Cũng trong sách này, ở mục Cổ tích có ghi:" Vườn cổ Dược Sơn: Ở xã Dược Sơn huyện Chí Linh là chỗ nhà cũ của Trần Hưng Đạo Vương, nền cũ vẫn còn ". Sách Lịch sử Việt Nam, tập I ghi: "Từ thế kỷ XIII Trần Quốc Tuấn và Thái y viện nhà Trần đã coi trọng việc sử dụng các cây thuốc trong nước để chữa bệnh cho nhân dân và vết thương cho quân lính. Tại Vạn Kiếp Quốc Tuấn gây dựng được một khu vực trồng cây thuốc khá rộng (ngọn núi đó đến nay vẫn mang tên là Dược Sơn)".
Vườn cây lúc đầu nhỏ, sau này càng mở rộng, được gọi là Dược Sơn. Chắc hẳn vườn cây thuốc đặc biệt này  góp phần không nhỏ vào việc chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho quân và dân để chiến thắnh ngoại xâm, những truyền thuyết về di tích Dược Sơn vẫn còn đến ngày nay. Truyền thuyết kể lại rằng: "Một đêm Hưng Đạo Đại Vương nằm mơ thấy có một ông già đầu quấn khăn nâu, mình mặc áo dài đen, tay xách túi cói vào tìm gặp. Ông lão vái ba vái nói: “Tôi là Dược linh, biết Đức Ông cần thuốc nên đem biếu”. Hưng Đạo Vương cảm tạ và đáp lễ nhận túi. Mở túi Quốc Công chỉ thấy có mấy cây thuốc giống, ngẩng lên Hưng Đạo Vương không thấy ông lão đâu nữa. Chuyện cây thuốc làm ông không sao ngủ được.Về sau, trên đường về Xưởng Thuyền cách Vạn Kiếp vài dặm Hưng Đạo Vương thấy bên đường có những cây non giống như cây thuốc trong mơ, ông đã đem về trồng ở trên núi rồi tự tay hái lá làm thuốc đắp vết thương cho quân lính, quả nhiên vết thương lành hẳn. Từ đó núi có tên là Dược Sơn. Dân trong vùng  truyền rằng thuốc trồng ở Dược Sơn không có thứ thuốc nào sánh kịp. Phải chăng đây là vườn thuốc quốc gia đầu tiên của nước ta và cho đến ngày nay vẫn là "Độc nhất vô nhị". Vườn cây thuốc này rộng tới "hơn 10 ha với khoảng 200 loài cây thuốc, theo những lời truyền qua các thế hệ". Theo thống kê của Viện y học dân tộc Trung ương thập kỉ 70 (thế kỷ XX) thì khoảng  # 600 cây trồng và cây hoang dại là cây thuốc Nam. Hiện nay đi lướt phía sườn đồi còn đếm được hơn 50 loài đang tồn tại điển hình như: Cây Lạc Tiên (Hồng dây), cây Móng hổ, cây cỏ Chỉ thiên, Cây Ruột già, cây Mặt quỷ, cây Hà thủ ô, cây Mặt trời, cây Bồ Giác...
Dược Sơn  gắn bó mật thiết với di tích Kiếp  Bạc, với tên tuổi vị anh hùng Trần Hưng Đạo. Quả vậy, hàng năm về lễ hội Kiếp Bạc dù tiết trời thế nào mọi người đều cố leo lên đền Nam Tào thăm núi Dược Sơn uống nước lá thuốc Dược Sơn. Đứng đây không khỏi xúc động trước đất trời, sống núi mênh mông mà cha ông ta đã tốn bao xương máu, công sức giữ gìn đến ngày nay. Người ta còn tìm mua những vị thuốc cây thuốc được tin là linh dược.
Trải qua 7 thể kỷ, Dược Sơn nay đã hoang sơ, cây thuốc nam đã bị chặt phá thay vào đó là những cây có giá trị kinh tế cao như: vải, nhãn... Thật đáng tiếc! di tích Kiếp Bạc qua nhiều đời được nhân dân ta trân trọng giữ gìn, các triều đại luôn có sắc chỉ nghiêm cấm mọi hành động vi phạm. Năm 1962 đã được nhà nước xếp hạng đợt đầu, năm 1994 lại được xếp vào hàng những di tích đặt biệt quan trọng  được quan tâm trùng tu, bảo tồn. Kiếp Bạc cùng Côn Sơn hình thành một quần thể rất  phong phú về di chỉ, đền chùa, gắn với một vùng thiên nhiên hùng vĩ có rừng, núi, sông hồ. Giá trị di tích càng lớn lao vì cảnh quan môi trường và sự đa dạng sinh học. Kiếp Bạc không thể thiếu cây thuốc với rừng cây trên Nam Tào - Bắc Đẩu.
Khu di tích Côn Sơn -Kiếp Bạc đang được quy hoạch tổng thể để  bảo tồn, tôn tạo thành một khu du lịch - văn hoá lớn. Trong đó vườn thuốc Dược Sơn  được quan tâm như một hạng mục quan trọng, bởi vì ngoài ý nghĩa lịch sử còn có giá trị đặc biệt về y học và kinh tế. Phục hồi được vườn thuốc Dược Sơn sẽ làm cảnh quan khu di tích Kiếp Bạc thêm phong phú thơ mộng đồng thời có tác dụng giáo dục các thế hệ sau hiểu biết hơn về vai trò của căn cứ Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỉ XIII, để các thế hệ sau tự hào về truyền thống yêu nước về mảnh đất "địa linh nhân kiệt" cũng khôi phục được một trong bát cổ của Chí Linh - một việc làm mà người dân địa phương vẫn ao ước.

MỘT SỐ KẾT QUẢ KHẢO CỔ HỌC
       I. Giai đoạn từ năm 1972 đến năm 1979.
1. Khu di tích Kiếp Bạc.
a) Sân sau đền Kiếp Bạc:
Năm 1972, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam và Ty văn hoá Hải Hưng đã tổ chức khai quật, nghiên cứu khảo cổ học phía sau đền Kiếp Bạc với quy mô lớn (180m). Kết quả đã phát hiện được dấu tích nền móng kiến trúc phủ đệ của H­ưng Đạo Đại V­ương ở thế kỷ XIII gồm: 2 cấp nền nhà, vết tích gạch bó thềm, hàng chân tảng cột, gạch vuông : 39 x 39 x 8 cm, có hoa văn in nổi hình hoa thị (gạch hoa thị), đ­ường ống dẫn n­ước bằng đất nung. Ngoài ra, còn tìm thấy nhiều hiện vật: Ngói mũi hài, ngói chiếu, gạch trang trí, đồ gốm có men: men ngọc, men da l­ơn, men nền trắng hoa nâu...; các đồ sắt, đồng: dao, đinh, tiền đồng niên hiệu Nguyên Phong thông bảo ( Trần Thái Tông 1251 - 1258). Đây là di tích gốc, có giá trị về nhiều mặt, b­ước đầu hiểu biết cụ thể về quy mô, kiến trúc…của phủ đệ Vạn Kiếp.     

Dấu tích phủ đệ của Trần Hưng Đạo Đại Vương, thế kỷ XIV,
phát hiện sau đền Kiếp Bạc, năm 1972.
 
          b) Núi Dược Sơn ( núi Nam Tào)
Tại hố khai quật ở mặt bắc chân núi Nam Tào, cách đền Kiếp Bạc 300m, các nhà khảo cổ của Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam và Ty văn hoá Hải Hưng đã tìm thấy hai lò nung ( lò cóc). Lò được khoét vào đất chân núi, phần cửa và bụng lò xây bằng gạch vồ. Nền lò hình tròn, có 3 ống thông hơi ở vách trong. Ngoài ra, còn phát hiện nhiều hiện vật trong khu vực này: Lon sành, mảnh đồ men, mảnh gạch ngói màu xanh xám…Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc của lò và các di vật tìm được cho thấy đây là loại lò nung gạch và đồ sành có niên đại thế kỷ XIV, thế kỷ XV.
c) Ngoài ra, trong giai đoạn này còn có một số cuộc thám sát, khai quật khảo cổ học khu vực Ao Cháo ( Kiếp Bạc)…
               
          Lò gốm cóc, phát hiện tại chân núi Nam Tào, năm 1972
 2. Khu di tích Côn Sơn.
Tháng 3, 4 năm 1979, Ty Văn hoá và thông tin Hải H­ưng đã tổ chức nhiều cuộc điều tra, thám sát khảo cổ ở Côn Sơn:
          a) Đăng Minh Bảo Tháp ( tháp mộ đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang)
Tại hố khai quật cạnh Đăng Minh Bảo Tháp ( tháp mộ của đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang tôn giả trùng tu năm 1792 ) đã phát hiện những di vật kiến trúc của ngôi tháp bằng đất nung. Sau khi sắp xếp các chi tiết kiến trúc tìm đư­ợc cho thấy đây là ngôi tháp cấu trúc hình vuông. Căn cứ đặc điểm vật liệu, kiến trúc, hoa văn và thư­ tịch cổ, các nhà khảo cổ học đã nhận định đây là Đăng Minh Bảo Tháp đ­ược xây dựng ở thế kỷ XIV, đặt xá lỵ của Huyền Quang tôn giả sau khi Ng­ười viên tịch tại Côn Sơn. Kết quả khai quật này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử di tích và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Trần.
                     
 
   Đăng Minh Bảo Tháp, phát hiện tại Côn Sơn, năm 1979.
 
          b) Khu vực Thanh Hư Động:
Tại hố thám sát khu vực khu nền nhà lớn nhất, cách Thạch Bàn 80m,  các nhà khảo cổ đã phát hiện 1 kè đá dài 27m và nhiều hiện vật gồm: bát men ngọc có dấu con kê, một vỉa gạch, ngói mũi nhọn ( 15x21cm)…Trên cơ sở phân tích đặc điểm kiến trúc, hoa văn trang trí trên các di vật, kết hợp tư liệu chính sử, bước đầu nhận định đây là khu vực liên quan mật thiết đến quan Tư đồ phụ chính Trần Nguyên Đán. Nhiều khả năng đây là nền nhà cũ của ông.
          c)Chùa Côn Sơn.
Tại hố thám sát vuông góc với Thượng Điện (phía bên phải chùa Côn Sơn), ở độ sâu hơn 2m đã xuất lộ 3 dấu tích kiến trúc kè đá chạy song song với tường Thượng điện. Lớp văn hóa từ 1,2m trở xuống phát hiện nhiều hiện vật đặc trưng thời Trần, thậm trí lần đầu tiên được biết đến: phù điêu hình chữ S lồng, ngói trang trí hoa văn hình trán bò, lá đề, sen cách điệu, hoa cúc dây, sen phượng, rồng chầu trong hình lá đề…Căn cứ các thư tịch cổ, kết quả khai quật, các di vật tìm thấy, cho biết các hiện vật ở lớp văn hóa cuối cùng của hố thám sát có niên đại thời Trần.
 
          II. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000.
          1. Khu di tích Kiếp Bạc.
          a) Di tích Xóm Hống - Cánh đồng Vạn Yên xã Hư­ng Đạo.
Năm 1996, sau các cuộc điều tra, khám sát khảo cổ học của Bảo tàng Hải Hưng, Trường Đại Học tổng hợp, chuyên gia Nhật Bản từ năm 1986 -1989, tại di tích xóm Hống thuộc cánh đồng Vạn Yên thuộc khu di tích đền Kiếp Bạc, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Hải D­ương đã phối hợp tổ chức khai quật tại đây với diện tích là 42m2. Qua 10 lớp đất đào, ở độ sâu từ 190 - 245cm, các nhà khảo cổ đã xác định đ­ợc 3 tầng văn hoá và phát hiện nhiều hiện vật giá trị: Đồ gốm: Bát, đĩa, âu, bình dạng ống nhổ,… đồ sành: mảnh lon, vò,…vật liệu kiến trúc: gạch, ngói mũi hài,… than tro, nền bếp đất nung, mảnh bao nung, con kê, tiền đồng, đá cuội, đá ráp…Căn cứ vào kết quả khảo cổ học những năm tr­ước tại di chỉ, kết hợp t­ư liệu điền dã về lịch sử khu di tích, vị trí địa lý của di chỉ và loại hình, số l­ợng lớn di vật tìm thấy tại hố khai quật, các chuyên gia khảo cổ đã nhận định: các di vật trên hầu hết có niên đại thời Trần và Xóm Hống là một trung tâm sản xuất đồ gốm tồn tại từ thế kỷ XIII đến XVI.
          b) Di tích Mộ Cổ - khu di tích Kiếp Bạc.
Tháng 3/2000, Trên sườn núi Trán Rồng, thuộc khu di tích Kiếp Bạc đã phát hiện một ngôi mộ. Mộ kết cấu trong quan, ngoài quách, xung quanh xây gạch (40cmx 40cm x 5cm), gồm: Quách là một chum đất nung màu đỏ xẫm, trong chum đất nung là thạp gốm hoa nâu. Trong thạp là cốt hoả táng và 2 di vật là g­ương đồng và khánh bạc đ­ược chạm trổ tinh xảo. Căn cứ vào đặc điểm của ngôi mộ, hoạ tiết trang trí và các hiện vật tìm thấy trong thạp, các chuyên gia khảo cổ nhận định đây là ngôi mộ cổ, quý hiếm, chủ nhân là một phụ nữ quyền quý thời Trần, niên đại thế kỷ 13.
     
   
                 Mộ cổ thời Trần (TK-XIII), phát hiện tại sườn núi Rồng sau đền Kiếp Bạc, tháng 03/2000
 
          c) Di tích Sinh Từ - khu di tích Kiếp Bạc.
 Năm 2000, Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam đã tổ chức thám sát khảo cổ học tại di tích Sinh Từ (Từ Cũ). Nơi đây trong sử sách, nhân dân vẫn nhắc nhớ về phủ đệ cũ và vị trí ngôi đền thờ H­ưng Đạo Đại Vư­ơng khi Ngư­ời còn sống đã đ­ược vua Trần cho xây dựng. T­ương truyền, sau khi H­ưng Đạo Đại Vư­ơng qua đời, nhân dân đã chuyển nguyên vật liệu của Sinh Từ về dựng đền Kiếp Bạc hiện nay. Tại di tích, mở 3 hố thám sát với diện tích là 23,3m2, kết quả đã phát hiện đư­ợc dấu tích kiến trúc của 3 cấp nền, 21 đoạn ống cống thoát n­ước bằng đất nung hình trụ (đư­ờng kính 20cm) nối liền nhau và vết tích bờ kè bằng đá vôi, đá cuội. Ngoài ra, còn tìm thấy nhiều di vật đồ gốm. đất nung, thóc cháy…có niên đại thế kỷ 13, 14. Theo nhận định ban đầu của các chuyên gia khảo cổ thì Sinh Từ nằm ở đoạn cuối của sông Vang, di tích nh­ư một ốc đảo xung quanh là n­ước. Khi đó, bờ kè đá vôi, đá cuội có chức năng ngăn n­ước giữa sông Vang với các công trình kiến trúc của phủ đệ Sinh Từ.
d)  Di tích Hố Thóc
Hố Thóc nằm trong thung lũng lòng chảo, xung quanh có núi bao bọc, thuộc địa phận xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, cách đền Kiếp Bạc 2,5km về phía đông nam.Tương truyền, đây là kho quân lương của đại bản doanh Vạn Kiếp do Thiên Thành Công chúa - phu nhân Trần Hưng Đạo Đại Vương phụ trách.
          Năm 2000, Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam tổ chức mở 3 hố khai quật trong khu vực Hố Thóc đã tìm thấy nhiều dấu vết: tầng đất có mầu đen, nhiều hiện vật gốm, vũ khí, đặc biệt là thóc cháy… Theo nhận định ban đầu, các chuyên gia khảo cổ học cho rằng tại di tích Hố Thóc có sự tồn tại của một dấu tích thời Trần có liên quan đến lương thảo.
 
 
       
         Dấu tích thóc cháy tại Hố Thóc , khai quật tháng 06/2000
          e) Viên Lăng:
Viên Lăng nằm ở gò đất hình tròn cách đền Kiếp Bạc 300 về phía Đông Nam. Đây là điểm đắc địa, được xem như là viên ngọc của khu vực. Tương truyền, phần mộ của Trần Hưng Đạo Đại Vương được táng tại đây. Đến thời Nguyễn, tổng đốc Hải Dương Lê Hoan đã chọn vị trí này để dựng đền thờ mình (đền Thượng). Về sau một số hộ dân đã dựng nhà ở tại khu vực này. Năm 2000, các nhà khảo cổ học của Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã tiến hành khai quật, phát hiện dấu tích nhà ở của dân và tìm thấy rải rác mảnh sành thời Trần.
g) Hố Chân Bia:
Hố chân bia nằm ở chân núi Trán Rồng, cách đền Kiếp Bạc 400m về phía Đông. Năm 2000,Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã tổ chức thám sát, khai quật khảo cổ học tại khu vực này nhằm tìm kiếm dấu tích tấm bia Thần tích Sinh Từ, do vua Trần Thánh Tông tự soạn ca ngợi công đức Hưng Đạo Đại Vương, khi Người còn sống. Kết quả đã phát hiện được một số gạch 40cm x 40 cm x 5cm trang trí hoa dây ở giữa, một bậc tam cấp ớ phía tây bắc khu đất.
h) Ao Cháo:
          Tương truyền đây là nơi dưỡng thương, trị bệnh cho quân sỹ của đại bản doanh Trần Hưng Đạo Đại Vương. Tại đây, người dân đã phát hiện nhiều viên gạch 40cm x 40cm x 5xm ở phía trong bờ kè và nhiều lọ gốm kiểu nậm rượu. Phỏng đoán ban đầu, đây có thể là đồ đựng thuốc chữa bệnh.
          2. Khu di tích Côn Sơn:
a) Khu vực tam quan chùa và khu vực đỉnh núi Kỳ Lân:
Từ năm  1992 -1994, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng đã tiến hành tổ chức thám sát, khai quật khảo cổ học tại một số điểm di tích, như: khu vực tam quan chùa Côn Sơn, khu vực đỉnh núi Kỳ Lân (phục vụ dự án xây dựng nhà bia ở khu vực Bàn cờ tiên).
Kết quả: Đã phát hiện nhiều mảnh gạch, ngói, gốm thời Trần.
b)Khu Vườn tháp:
Năm 2000, Bảo tàng Hải Dương phối hợp Ban quản lý dích tích Côn Sơn - Kiếp Bạc mở hố khai quật tại khu vực vườn tháp sau chùa, cách nhà tổ 50m. Kết quả đã thu được hơn 2000 hiện vật, gồm: Ngói mũi hài đơn, mũi hài kép, phù điêu hình rồng bằng đá, con giống đất nung, dấu vết các vỉa đá kè… Căn cứ thư tịch cổ, dấu tích kiến trúc, di vật tìm thấy, các nhà khảo cổ nhận định rất có thể đây là một tòa Cửu phẩm liên hoa thời Trần của chùa Côn Sơn.
c) Khu vực Thanh Hư Động ( Đền thờ Trần Nguyên Đán)
Năm 2000, Bảo tàng tỉnh Hải Dương tiếp tục quay trở lại khu vực Thanh Hư động, mở 3 hố khai quật khảo cổ học nhằm xác định quy mô của công trình kiến trúc. Kết quả đã xuất lộ 1 nền nhà được làm theo kiểu giật cấp   ( nền cấp 1: 29,0m x 9m; cấp 2: 29m x 7.5m; cấp 3: 1sân dài 29m x 11,2m) và nhiều gạch ngói, đinh thuyền… Các nhà khảo cổ cho rằng khu vực này là trung tâm của Thanh Hư Động và là đền thờ của quan tư đồ trần Nguyên Đán sau khi ông qua đời.
     
     Khai quật tại Thanh Hư Động, năm 2000
  
          d) Cầu Thấu Ngọc
Tại hố khai quật khu vực cầu thấu ngọc, các chuyên gia khảo cổ đã tìm thấy nhiều mảnh ngói các loại, trong đó phần lớn là ngói mũi nhọn, có móc thời Trần, Lê. Căn cứ các nguồn tư liệu, kết quả khai quật cho thấy cầu Thấu Ngọc là bộ phận quan trọng của Thanh Hư Động.
Ngoài ra, trong giai đoạn còn có một số cuộc thám sát, khai quật khảo cổ học khu vực nền nhà cũ của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi và Chùa Côn Sơn.
          III. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2006.
          1. Khu di tích Kiếp Bạc.
a) Di tích Nam Tào, Bắc Đẩu:
 Từ tháng 12/2005 đến tháng 1/2006, Viện Khảo cổ Việt Nam phối kết hợp Ban Quản lý di tích (QLDT) Côn Sơn - Kiếp Bạc tổ chức thám sát, khai quật khảo cổ học tại di tích Nam Tào, Bắc Đẩu. Tại di tích Bắc Đẩu mở một hố thám sát với diện tích 6m2, địa tầng hố thám sát biểu hiện sự xáo trộn rõ rệt từ 15 - 20cm là gạch, ngói, lớp đất d­ưới khá thuần nhất của đất đồi. Dấu tích kiến trúc cổ không còn, đã bị san lấp làm mặt bằng xây dựng đồn, bốt của Pháp.
b) Di tích Nam Tào:
Cùng đợt khai quật nói trên (12/2005 - 1/2006), tại di tích Nam Tào, ba hố khai quật đã đ­ược mở trên nền kiến trúc cũ của toà Tiền tế. Kết quả đã tìm thấy dải móng hẹp, chạy dài theo mặt bằng kiến trúc cổ và dấu vết nền móng của một số công trình phụ cận nh­ư: bể n­ớc, nhà chè, gác chuông… Đặc biệt, tại đây đã phát hiện một tấm bia đá: Vạn Dư­ợc công đức bi ký, dựng năm Bảo Đại thứ 4 (1929) và nhiều hiện vật gốm, sành, sứ khác. Căn cứ vào kỹ thuật xây dựng móng, kiểu dáng, chất liệu di vật, nội dung bi ký… các chuyên gia khảo cổ nhận định di tích Nam Tào có niên đại sớm nhất vào thế kỷ XIII, XIV và đ­ược trùng tu xây dựng lại ở thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX, tạo nên một quần thể di tích để tôn vinh Đức Thánh Hư­ng Đạo Đại Vương.
Bia: Vạn Dược công đức 
                                
 
          2. Khu di tích Côn Sơn
          Tả hữu hành lang cổ và phía sau tổ đường chùa Côn Sơn:
Tháng 12/ 2005, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với Ban QLDT Côn Sơn - Kiếp Bạc tổ chức mở 3 hố khai quật tại tả, hữu dãy hành lang cổ và phía sau nhà tổ chùa Côn Sơn.
Kết quả ban đầu cho thấy dấu vết kiến trúc khá rõ:
- Ở phía sau nhà tổ, gồm nền móng kiến trúc chạy dài đ­ược kè đá chèn lẫn gạch, các nhà khảo cổ cho rằng đây rất có thể là móng kiến trúc của nhà hậu đ­ường chùa Côn Sơn. Tại hố khai quật ở tả, hữu hành lang đã phát hiện các tầng văn hoá ở thế kỷ XVIII, XIX (độ sâu 0,7m đến 0,3m ), tầng văn hoá ở thế kỷ XVI, XVII (ở độ sâu 1,1m đến 0,8m), tầng văn hoá thế kỷ XIII, XV (ở độ sâu 1,8m đến 1,0m), thu đ­ợc trên 3000 hiện vật, bao gồm gạch, ngói, trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ… Đặc biệt là đã phát hiện hai lớp nền móng kiến trúc cũ của tả hữu hành lang chùa Côn Sơn.
- Lớp nền móng thứ nhất của dãy hành lang đ­ược xây dựng ở thế kỷ XIV.
- Lớp nền móng thứ hai dãy hành lang chùa Côn Sơn đ­ược trùng tu xây dựng ở thế kỷ XVI - XVII.    
          
Nền móng kiến trúc nhà hậu Đường, đầu rồng bằng đất nung -  chùa Côn Sơn,  tháng 12/2005
           
 
Hiện vật khai quật hố 1, lớp1  phát hiện tại Hành lang chùa Côn Sơn,tháng 12/2005
          
 Hiện vật khai quật hố 1, lớp2, phát hiện  tại Hành lang chùa Côn Sơn tháng 12/2005
 
Ngoài ra, hệ thống di vật tìm thấy rất phong phú, đa dạng như : Gạch, ngói, bát, đĩa, tước, lon sành, bình, lọ, bát hương…được xác định có niên đại từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, đặc biệt có nhiều hiện vật thời Lê (thế kỷ XV, XVI), điều đó phù hợp với văn bia chùa và các thư tịch của chùa Côn Sơn ghi về  lịch sử chùa Côn Sơn có từ thế kỷ XIII, XIV, được trùng tu, tôn tạo lớn vào thế kỷ XV và được mở rộng vào thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII.

Nguồn tin: Ban Quản lý Di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc

© Chí Linh quê tôi tổng hợp và sắp xếp các thông tin tự động bởi chương trình máy tính với sự hỗ trợ của Google Alerts, Skydoor & Baomoi. Tiêu đề và nội dung một số bài viết được Chí Linh quê tôi biên tập cho phù hợp. Link bài viết gốc được đính kèm dạng URL ở phần tác giả cuối mỗi bài viết.
Chí Linh quê tôi do Hội Người Chí Linh tại Đài Loan phát triển và quản lý. Phản hồi, đóng góp thông tin qua email: [email protected] 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bài viết được xem nhiều
CÔN SƠN - KIẾP BẠC:
HÀNH TRÌNH DI SẢN

qh
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây