Tình yêu Côn Sơn trong thơ Nguyễn Trãi

Thứ năm - 03/01/2019 13:24 - 3234 lượt xem
Tình yêu Côn Sơn trong thơ Nguyễn Trãi
Tình yêu Côn Sơn trong thơ Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Đến năm 1385 thì cụ Trần Nguyên Đán xin cáo quan vè trí sĩ ở Côn Sơn. Về đây cụ đã cho xây dựng Thanh Hư động- một công trình kiến trúc nổi tiếng trong lịch sử. Trong bài Thanh Hư động ký , Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi có kể lại rằng: " Rồi ông xem xét đất đai, đo đạc hình thế, một hồi trống đánh lên, mấy vạn người xúm lại, phát lùm cây rậm rạp, san gò đá gồ ghề, dòng suối gạn trong, lối hoang mở rộng, có đủ nhân công vật liệu đắp móng xây tường, việc làm liên tiếp không đầy một tháng mà công trình xây trát kẻ vẽ đều đã hoàn thành. Chỗ cao hình vòm, chỗ thấp hình chảo. Nhìn chỗ xa, ngắm màu xanh, thu vẻ lạ quán nét đẹp, gồm biết bao cảnh trí để yên nghỉ hoặc vui chơ, gọi chung là động Thanh Hư ( có nghĩa là trong trẻo và lộng lẫy)"
Sau khi động Thanh Hư được xây dựng thì cảnh trí của Côn Sơn càng trở nên thơ mộng. Cũng trong bài ký ấy, ở một đoạn khác,Nguyễn Phi Khanh đã tả rằng: " Khói đầu non ráng ngoài đảo gấm vóc phô bầy; hoa dọc suối cỏ ven rừng biếc hồng phấp phới. Bóng mát để nghỉ, chỗ vắng để ngồi, mùi thơm để ngửi, sắc đẹp để xem, phàm những hình ảnh trong mát, tiếng suối tuôn reo, xa vời mà hư không, sâu thẳm và yên lặng, hợp với tai mắt tâm thần người ta, ở đây đều có đủ cả". 

Lúc ấy thì mẹ con Nguyễn Trãi cũng về Côn Sơn ở với ông ngoại, cho dù cha của Nguyễn Trãi vẫn đang dạy học ở Nhị Khê. Nhưng vì sao lại có việc này? Nguyên do như sau: thân phụ Nguyễn Trãi trước đây vốn tên là Nguyễn Ứng Long, người làng Chi Ngãi, huyên Phượng Sơn (nay thuộc Chí Linh), xuất thân nghèo khổ nhưng có tài và khá nổi tiếng trong giới nho sĩ ở Thăng Long. Vì thế mới được quan Tư đồ Trần Nguyên Đán vời vào làm gia sư để kèm cặp một người con có tên là Trần Thị Thái. Không ngờ thày trò lại yêu nhau say đắm đến nỗi làm cô Thái có mang. Nguyễn Ứng Long hoảng quá bỏ chạy. Quan Tư đồ phải ngầm sai người đi dò tìm Ứng Long trở về và nói với Ứng Long rằng: "Người đời xưa đã có việc này, không thấy chuyện Văn Quân với Tương Như sao? Nếu được như Tương Như để tiếng về sau thì ta cũng bằng lòng". Và ông đã tác thành cho đôi trẻ. Cảm động trước tấm lòng ấy, Nguyễn Ứng Long đã ra công dùi mài kinh sử và đến khoa thi năm 1374, lúc ấy ông mới có 19 tuổi đã đỗ Tiến sĩ. Nhưng Thượng hoàng Nghệ Tông lúc đó đã phán rắng: " Bọn ấy lấy vợ con nhà phú quý, là kẻ dưới mà phạm người trên, bỏ không dùng". Vì thế mà suốt những năm còn lại của nhà Trần, Nguyễn Ứng Long phải về làng Ngọc Ổi (thuộc Thường Tín ngày nay) ngồi dạy học, còn vợ con vẫn phải ở lại nhà nhạc phụ. Như vậy là từ khi mới năm tuổi Nguyễn Trãi đã về sống ở Côn Sơn. Mối giao cảm đầu tiên của ông đối với thế giới bên ngoài chính là thiên nhiên và kiến trúc đầy thơ mộng của Côn Sơn. Đó chính là cái lý do rất tự nhiên khiến suốt cuộc đời mình, ông đã giành cho Côn Sơn một tình yêu đặc biệt. Có thể nói, cả đời ông chưa có tình yêu nào lại gắn bó thuỷ chung và bền chặt như tình yêu đối với Côn Sơn. 

Chúng ta đã nói rất nhiều về lý tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và chúng ta cũng biết ông đã tận tuỵ chiến đấu để thực hiện lý tưởng ấy như thế nào. Nhưng về cuối đời không phải không có lúc Nguyễn Trãi cũng cảm thấy bi quan bế tắc; thậm chí có lúc ông còn phủ nhận cả ý nghĩa của cuộc đời: 

Thế thượng hoàng lương nhất mộng dư 
Giác lai vạn sự tổng thành hư 
(Đời người chỉ là cái thừa của giấc mộng kê vàng 
Lúc tỉnh lại muôn việc đều trở thành không cả) 
                             Ngẫu thành

Hoặc: 

Đời người trong trăm tuổi 
Rốt cuộc như thảo mộc 
Vui buồn lo sướng đổi thay nhau 
Một tươi một héo vẫn tương tục 
Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên 
Chết rồi ai vinh với ai nhục 
                             Côn Sơn ca

Và không phải không có lúc Nguyễn Trãi đã tự trách mình: 

Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh 
Vô thuật năng y lão cánh gia 
(Viển vông vốn thật là bệnh của ta 
Không thuật gì chữa được mà già càng thêm nặng) 
                             Ngẫu thành

Nhưng riêng tình yêu đối với Côn Sơn của ông thì dường như lúc nào cũng gắn bó và vẹn nguyên: 

Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình 
Quy tứ dao dao nhật tự tinh 
(Mười năm xiêu dạt thân mình như cỏ bồng cánh bèo 
Lòng muốn về lay láy ngày nào cũng như cờ phất) 
                             Quy Côn Sơn chu trung tác

Đọc thơ ông, ta thấy dường như trong suốt những năm tháng bận rộn đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho lý tưởng nhân nghĩa, chưa một lúc nào ông quên cái mảnh đất Côn Sơn muôn quý ngàn yêu đối với ông. Cho nên, có lúc thì nhớ Côn Sơn trong giấc ngủ: 

Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng 
Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền 
(Núi cũ đêm qua vấn vương vào mộng nhẹ 
Trăng chứa đầy sông Bình Than, rượu đầy thuyền) 
                             Mạn hứng

Có lúc ông lại nhớ Côn Sơn khi vừa tỉnh giấc: 

Mộng giác cố viên tam kính cúc 
Tâm thanh hoạt thuỷ nhất âu trà 
(Tỉnh mộng nhớ vườn cũ có ba rặng cúc 
Rửa lòng cho sạch có nước chảy với một âu trà) 
                             Mạn hứng III

Nhiều khi nhớ Côn Sơn quá mà không về thăm được thì ông về Côn Sơn trong giấc mộng: 

Miến tưởng cố viên tam kính cúc 
Mộng hồn dạ dạ thượng quy đao 
(Nhớ nhung vườn cũ có ba rặng cúc 
Hồn mộng đêm đêm vẫn lên thuyền để về) 
                             Thu nhật ngẫu thành

Và nỗi nhớ nhung ấy nhiều khi trở thành một nỗi buồn thương vô cùng cảm động. Trong bài Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, ông viết: 

Nhất biệt gia sơn kháp thập niên 
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên 
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ 
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên 
Hương lý tài qua như mộng đáo 
Can qua vị tức hạnh thân tuyền 
Hà thì kết ốc vân phong hạ 
Cấp giản phanh trà chảm thạch miên.

Nghĩa là: 

Từ khi đi khỏi núi nhà đã vừa mười năm 
Trở về thì tùng cúc đã nửa hoang rậm 
Có hẹn với rừng suối sao ta nỡ phụ 
Gục đầu nơi đất bụi chỉ tự thương mình 
Làng quê mới qua như thấy chiêm bao đến 
Can qua chưa dứt may được vẹn chiếc thân 
Bao giờ làm được nhà ở dưới gió mây 
Để múc nước khe nấu trà và gối đá ngủ.

Sau loạn về Côn Sơn, thấy cảnh vườn nhà tiêu điều hoang rậm ông đã không sao cầm lòng được và ông đã thương cảm như muốn khóc. Tình thương Côn Sơn của ông ở đây thật đúng như tình thương đối với một người thân, như đối với một mảnh máu thịt của mình vậy. 
Cũng bằng những xúc động rưng rưng như thế, nhưng ở bài khất nhân hoạ Côn Sơn đồ tình cảm của ông còn não nuột hơn: 

Bán sinh khâu hác phế đăng lâm 
Loạn hậu gia hương phí mộng tầm 
Thạch bạn tùng phong cô thắng thưởng 
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm 
Yên hà linh lạc trường kham đoạn 
Viên hạc tiêu điều ý phỉ cầm...

Nghĩa là: 

Nửa đời phải bỏ cái thú leo trèo khe núi 
Sau loạn quê nhà chỉ phí chiêm bao mà tìm về 
Gió tùng trên bậc đá không có ai thưởng thức 
Bóng hoa mai bên suối đành phụ thú ngâm nga 
Thấy yên hà vắng vẻ lòng ta muốn đứt 
Thấy vượn hạc tiêu điều tâm ý khó cầm...

Gắn bó với Côn Sơn như vậy, cho nên khi cuộc đời Nguyễn Trãi gặp bế tắc trên con đường thực hiện lý tường nhân nghĩa thì tình yêu Côn Sơn đã lên tiếng gọi và thôi thúc ông trở về đây sống cuộc đời nhàn dật. Về Côn Sơn càng ngày càng trở thành một niềm khao khát đối với ông: 

Như kim chỉ ái sơn trung túc 
Kết ốc hoa biên độc cựu thư 
(Như nay ta chỉ muốn ở trong núi 
Làm nhà bên hoa và đọc sách xưa) 
                             Ngẫu thành

Cho nên khi được về sông ở Côn Sơn, ông cảm thấy nhẹ nhàng và sung sướng lắm: 

Côn Sơn có suối nước trong 
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm 
Côn Sơn có đá tần vần 
Mưa trơn rêu sạch ta nằm ta chơi 
Côn Sơn thông tốt ngất trời 
Ngả nghiêng dưới bóng ta thời tự do 
Côn Sơn trúc mọc đầy gò 
Lá xanh bóng rợp tha hồ tiêu dao. 
                             Côn Sơn ca 
                             (Theo bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật)

Hình như, ngoài bài Côn Sơn ca ra thì các bài thơ chữ Hán ông viết về Côn Sơn đều được sáng tác trong hoàn cảnh ông phải sống xa quê hay trong những lúc ông ghé thăm ít bữa mừng mừng tủi tủi rồi lại đi. Cho nên tình cảm thường rất thiết tha cảm động. Đến những bài thơ viết về Côn Sơn trong Quốc âm thi tập thì lại khác. Phần lớn những bài này đều được Viết khi Nguyễn Trãi đã về sống ở Côn Sơn. Có lẽ chỉ có bài Bảo kính cảnh giới số 28 là được viết trong những ngày cuối cùng khi ông còn ở Thăng Long : 

Nghìn dặm xem mây nhớ quê 
Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về 
Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại 
Hai chữ công danh biếng vả vê...

Bài thơ cũng cho ta biết chuyện về Côn Sơn của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ là không bình thường. Hình như ông ở trong tình trạng tuy chưa mất chức nhưng đã bị nghi ngờ và không được tin dùng nữa. Ông bắt đầu thấy chán ghét công danh nên mới "Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về". Nghĩa là chưa giả chức, mới là nghỉ tạm, nghỉ chờ chứ chưa nghỉ hẳn. Tuy vậy nghĩ đến chuyện được về Côn Sơn là lòng ông đã cảm thấy nhẹ nhõm và hào hứng lắm:"Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại/Hai chữ công danh biếng vả vê". Có lẽ ngay sau đó là ông về Côn Sơn sống một cuộc đời rất bình dị và thanh đạm. Ông ở trong những gian lều cỏ, kiến trúc rất sơ sài và tạm bợ: 

Chụm tự nhiên một thảo am 
Dầu lòng đi bắc miễn về nam. 
                             Thuật hứng,19

Trong nhà cũng chỉ thấy có một chiếc giường thấp, một nồi hương, một cây đàn, mấy cuốn sách...Thậm chí còn không dùng cả đèn dầu và chổi quét, bởi lẽ: 

Gió tịn rèm thay chổi quét 
Trăng kề cửa khỏi đèn khêu.

Nghĩa là ông đã lấy trăng làm đèn và lấy gió làm chổi. Ngoài cái ngôi lều tạm ấy ra, những người hàng xóm gần gũi và thân thiết của ông là núi, là chim, là mây, là nguyệt: 

Núi láng giềng,chim bầu bạn 
Mây khách khứa, nguyệt anh tam. 
                             Thuật hứng, 19

Nguồn sống thì dựa vào cái: "Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu" (Mạn thuật, 2); cái "Ruộng đôi ba khóm đất con ong" (Thuật hứng, 11); cái "Ao cạn vớt bèo thả muống" (Thuật hứng, 24). Cũng có khi ông còn phải nhờ cả đất vườn của nhà chùa Côn Sơn này: 

Ao quan thả gửi hai bè muống 
Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng 
                            Thuật hứng, 23

Cho nên bữa ăn của Nguyễn Trãi thường rất đạm bạc "cơm ăn chẳng quản dưa muối": 

Hôm dao đủ bữa bát cơm xoa 
                             Ngôn chí, 17

Hoặc: 

Lành thay cơm cám được no ăn 
                             Trần tình, 2

Đến cái mặc của Nguyễn Trãi cũng thật bình dị "Aó mặc nài chi gấm thêu". Nhiều bài thơ như những bức chân dung tự hoạ ông tả như thế này: chân đi hài gai, hoặc hài cỏ; mùa rét thì sỏ thêm đôi bít tất cũng thấy đã cũ rách: 

Miệt bở hài gai khăn cóc 
Xuềnh xoàng làm mấy đứa thôn dân 
Mạn thuật, 2

Nhưng lòng ông lại cảm thấy tự hào và thanh thản làm sao: 

Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh 
Aó bô quen cật vận xênh xang 
                             Tức sự, 4

Tâm hồn Nguyễn Trãi lúc này hoàn toàn không để ở công danh phú quý, không để ở ăn ngon mặc đẹp. Trái lại ông đắm mình vào trong cái thế giới thiên nhiên tạo vật kỳ thú của Côn Sơn: 

Say minh nguyệt chè ba chén 
Thú thanh phong lều một gian 
Ngỏ cửa nho chờ khách đến 
Trồng cây đức để con ăn 
                             Mạn thuật, 5

Hoặc: 

Bẻ cái trúc hòng phân suối 
Quét con am để chứa mây 
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá 
Rừng tiếc chim về ngại phát cây 
                             Mạn thuật, 6

Những "say", những "thú", những "tham", những "tiếc" ấy nói lên tất cả cái thiết tha đằm thắm của Nguyễn Trãi đối với cảnh vật Côn Sơn. Trong thơ ông, từ hình ảnh một ngày đi núi: 

Con cờ quay, rượu đầy bầu 
Đòi nước non chơi quản đâu 
Đạp áng mây, ôm bó củi 
Ngồi bên suối, gác cần câu... 
                             Trần tình, 5

Đến một buổi chiều vãng cảnh: 

Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay 
Trông thế giới phút chim bay 
                             Mạn thuật, 4

Cho đến một buổi tối thưởng hoa: 

Quét trúc bước qua lòng suối 
Thưởng mai về đạp bóng trăng 
                             Ngôn chí, 15

Ở đâu ta cũng thấy hiện ra một Nguyễn Trãi rất phóng khoáng và ung dung tự tại. Có thể nói Nguyễn Trãi đã sống ở Côn Sơn một cuộc sống tuyệt vời trong sáng và tinh khiết, một cuộc sống đầy văn hoá như ánh sáng, như khí trời vậy: 

Tiên thư sổ quyển cửu sinh nha 
Cơ thực tùng căn tước nhật hoa 
Trúc hữu thiên can lan tục khách 
Trần vô bán điểm đáo sơn gia 
(Mấy quyển sách tiên là vốn sinh nhai 
Đói ăn rể thông và hớp ánh nắng 
Trúc có ngàn cây để ngăn khách tục 
Bụi không nửa hạt bén vào căn nhà trong núi)

Sống trong sáng, sống đam mê với cảnh vật Côn Sơn, thực chất cũng chỉ an ủi, chỉ khuây khoả được đôi phần nỗi đau đời của Nguyễn Trãi. Trong đáy sâu tâm hồn ông vẫn cứ dây dưa một nỗi buồn không thể nguôi đi được: 

Thấy nguyệt tròn thì kể tháng 
Nhìn hoa nở mới hay xuân 
                             Bài 102, QÂTT

Đôi khi ông cũng như người ngất ngưởng dở tỉnh dở say: 

Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc 
Sây lểu thểu đứng đường thông 
                             Bài 61, QÂTT

Ông hoài nghi con người và chán ghét thế sự: 

Dễ hay ruột bể sâu cạn 
Khôn biết lòng người ngắn dài 
Sự thế dữ lành ai hỏi đến 
Bảo rằng ông đã điếc hai tai 
                             Bài 6, QÂTT

Nhưng chưa bao giờ ông quên trách nhiệm của một kẻ sĩ đối với đất nước, gia đình và xã hội: 

Còn có một lòng âu việc nước 
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ trung 
                             Bài 68, QÂTT

Hoặc nữa: 

Tơ tóc chưa hề báo sở sinh 
Già hoà lủ tủi nhiều hành 
Chông gai nhẹ đường danh lợi 
Mặn lạt no mùi thế tình 
Sách một hai phiên làm bầu bạn 
Rượu năm ba chén đổi công danh 
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa 
Cầu được ngồi coi đời thái bình. 
                             Bài107, QÂTT

Nguyện vọng "ngồi coi đời thái bình" là một tư tưởng lớn và khá cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Trãi: 

Mọi sự đã chăng còn ước nữa 
Nguyện xin được thấy thuở thăng bình 
                             Tự thán, 27

Có thể nói tình cảm của Nguyễn Trãi đối với Côn Sơn vừa là một biểu hiện tự nhiên của tình yêu quê hương đất nước, lại vừa là một thái độ chính trị, một quan điểm nhân sinh của một nhân cách lớn. Đồng thời nó cũng là một nỗi đau lớn, một bế tắc lớn của một lý tưởng xã hội không thể được thực hiện trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Lúc ấy Nguyễn Trãi tuy mới độ năm mốt năm hai tuổi nhưng những cuộc tranh quyền đoạt lợi thời hậu chiến của các phe cánh trong triều đình nhà Lê lại vô cùng khốc liệt và phức tạp. Một con người như Nguyễn Trãi không thể nào hoà nhập được. Tuy rất đau lòng nhưng ông cũng không còn cách nào khác là phải tự tách mình ra để tìm đến những thú riêng. Và cái thú riêng của ông chính là trở về sống nhàn dật ở Côn Sơn: 

Tròn sáu mươi dư tám chín thu 
Lưng gầy da xỉ dáng lù khù 
Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào-Hứa 
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng-Chu 
Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc 
Gian lều cỏ đội đức Đường-Ngu 
Tơ hào chẳng có đền ơn chúa 
Dạy láng giềng mấy sĩ nho. 
                             Ngôn chí, 143

Cộng cả hai thời kỳ, Nguyễn Trãi có khoảng 17 năm sống ở Côn Sơn và ông đã giành cho Côn Sơn một tình yêu thật đặc biệt. Tình yêu ấy đã tạo nên một nguồn thi ca rất phong phú trong cả Ưc Trai di tập và đặc biệt là trong Quốc âm thi tập. Tình yêu ấy từ lâu đã trở thành linh hồn của di tích lịch sử văn hoá Côn Sơn. Ngày nay, khi về thăm Côn Sơn, có lẽ phải đi qua cánh cửa thi ca mới có thể trực tiếp gặp được tâm hồn Nguyễn Trãi. Và gặp lại tâm hồn Nguyễn Trãi ta sẽ thấy danh thắng Côn Sơn giầu thi vị thêm rất nhiều. 

Đỗ Đình Tuân

© Chí Linh quê tôi tổng hợp và sắp xếp các thông tin tự động bởi chương trình máy tính với sự hỗ trợ của Google Alerts, Skydoor & Baomoi. Tiêu đề và nội dung một số bài viết được Chí Linh quê tôi biên tập cho phù hợp. Link bài viết gốc được đính kèm dạng URL ở phần tác giả cuối mỗi bài viết.
Chí Linh quê tôi do Hội Người Chí Linh tại Đài Loan phát triển và quản lý. Phản hồi, đóng góp thông tin qua email: [email protected] 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bài viết được xem nhiều
CÔN SƠN - KIẾP BẠC:
HÀNH TRÌNH DI SẢN

qh
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây