Các tác giả cổ ở Chí Linh (kì 2)

Thứ ba - 10/11/2015 12:56 - 4524 lượt xem

Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi
Chí Linh - miền đất sơn chầu thủy tụ, phong cảnh hữu tình đã từng là nơi dung dưỡng tâm hồn nhiều danh nhân, văn nhân tài tử từ xưa. Và nhiều người trong số đó đã để lại những tác phẩm rất có giá trị cho đời sau. NCL xin trân trọng giới thiệu loạt bài nghiên cứu của nhà giáo Đỗ Đình Tuân về các tác giả cổ ở Chí Linh.

6. ĐỒNG NGẠN HOẰNG (?-?)

Đồng Ngạn Hoằng người huyện Chí Linh, châu Thượng Hồng-nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông sinh và mất năm nào đều chưa rõ. Chỉ biết sống vào cuối thời Trần.
Tác phẩm chỉ còn lại một bài thơ chữ Hán được chép trong Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên và Chu Xa. Đó là một bài họa thơ của Phạm Sư Mạnh.
 
和范峡石韻
 
介軒碑剋峡石詩
彎翔鳳翥 覩如曾
二公文望華夷見
兩朝拊拂唐禹登
青髟 臆常升孔室
白頭完見出真人
文章晰實空留瀚
有若鷦鷯與大鵬
               童岸弘
 
Phiên âm:
Họa Phạm Hiệp Thạch vận
Giới Hiên 1 bi khắc Hiệp Thạch thi 2
Loan tường phượng chử đổ như tằng
Nhị công văn vọng Hoa di 3 kiến
Lưỡng triều phụ bật Đường Ngu 4 đăng
Thanh sam ức thường thăng khổng thất
Bạch đầu hoàn kiến xuất chân đăng
Văn chương tích thực không lưu hãn
Hữu nhược tiêu liêu dữ đại bằng.

Dịch nghĩa:
Họa vận thơ Phạm Hiệp Thạch 
     Bia Giới Hiên  khắc thơ Hiệp Thạch                                         
     Loan lượn phượng bay như từng thấy
     Hai ông nổi tiếng khắp Hoa di
     Giúp hai triều được như Đường ngu
     Lúc đi học đã có chí lớn
     Khi đầu bạc lại tỏ rõ là bậc chân nhân
     Văn chương đẹp đẽ để lại muôn đời
     Ai so với các ông cũng như chim chích sánh với đại bàng.
 
Dịch thơ:
Thơ Hiệp Thạch bia Giới Hiên
Phương bay loan lượn bạn hiền xứng đôi
Tiếng tăm lừng lẫy gầm trời
Giúp hai vua sánh được thời Đường Ngu
Chí cao từ tuổi học trò
Bạc đầu càng tỏ hiền từ chân nhân
Văn chương đẹp đẽ bội phần
Ai so, chim chích bén chân đại bàng
          Đỗ Đình Tuân dịch
 
Chú thích:
1.Giới Hiên : tên hiệu của Nguyễn Trung Ngạn(1289-1370), quan chức, nhà văn, người làng Thổ Hoàng huyện Thiên Thi, lộ Khoái Châu(Ân Thi, Hưng Yên ngày nay).
2.Thơ Hiệp Thạch: thơ Phạm Sư Mạnh, vì Hiệp Thạch là một cách gọi khác của Phạm Sư Mạnh (thế kỷ XIV,không rõ năm sinh năm mất), người làng Hiệp Thạch, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn (nay thuộc Hải Dương).
3. Hoa Di: Hoa, chỉ vùng Hoa Hạ tức Trung Quốc; Di, chỉ các dân tộc nhỏ bé ở xung quanh (cách gọi của người Trung Quốc). Nổi tiền khắp Hoa Di tức nổi tiếng khắp thiên hạ.
4.Đường Ngu: một cách nói khác của Nghiêu Thuấn, dùng tên triều đại thay tên vua.

 

7. HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN (1228-1300)

       Hư­ng Đạo đại vư­ơng Trần Quốc Tuấn là con của An Sinh vư­ơng Trần Liễu.Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Nh­ư vậy Trần Quốc Tuấn gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột. Trần Quốc Tuấn là người hư­ơng Tức Mặc, phủ Thiên Trư­ờng (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
       Năm 1237, vì Chiêu Thánh lấy Trần Cảnh đã sau 12 năm và 19 tuổi đời mà vẫn chưa có con, nên theo kế sách của Trần Thủ Độ, vua Trần Thái Tông lấy Thuận Thiên Lý Thị (chị ruột của Chiêu Thánh, vợ của anh ruột là Trần Liễu, đang có mang Quốc Khang ba tháng),  lập làm Hòang hậu và giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa. Trần Liễu tức giận bèn họp quân ra ngoài sông Cái làm loạn, nhưng sau yếu thế đành phải xin hàng.
Nhờ có sự che chở của vua Trần Thái Tông nên Trần Liễu đ­ược tha tội chết, như­ng quân lính đi theo đều bị giết cả. Sau việc này vua Trần Thái Tông lấy đất ở các xã Yên Phụ, Yên D­ưỡng, Yên Sinh, Yên Hư­ng, Yên Bang phong cho Liễu làm đất thang mộc và phong tư­ớc An Sinh vư­ơng cho Trần Liễu. Như­ng cái hận bị em ruột lấy quyền làm vua cư­ớp mất vợ mình đã đeo đẳng Trần Liễu đến suốt đời. Thấy con trai mình là Trần Quốc Tuấn “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn ngư­ời, đọc khắp các sách, có tài văn võ”, Trần liễu đã đi tìm khắp trong nư­ớc những ngư­ời tài giỏi để dạy cho Quốc Tuấn, với một mục đích sau này sẽ nhờ cậy Quốc Tuấn rửa hận cho mình. Trrư­ớc khi mất, ông còn cầm tay Quốc Tuấn mà dặn rằng: “Mày mà không vì cha lấy đ­ược thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt”. Từ khi Trần Liễu về Yên Phụ, Trần Quốc Tuấn đư­ợc công chúa Thụy Bà (chị ruột Trần Cảnh) nhận làm con nuôi.
       Năm 1251, Trần Quốc Tuấn kết hôn với  công chúa Thiên Thành, trư­ớc lúc cha mất đ­ược vài tháng. Có lẽ từ sau khi lập gia đình và cha mất, Trần Quốc Tuấn đã đư­ợc phong v­ương và phong đất cho ở h­ương Vạn Kiếp. Cũng từ đó Trần Quốc Tuấn đã gắn bó suốt đời mình với với mảnh đất này.
   Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ nhất(đầu năm 1258),Trần Quốc Tuấn đư­ợc cử cầm quân trấn giữ biên thùy phía bắc(vùng Đông Bắc).Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai (1285) và thứ ba (1287), ông đ­ược phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh ch­ư quân, là linh hồn của cuộc kháng chiến. Do có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và lần thứ ba, năm 1289, Trần Quốc Tuấn đ­ược tiến phong là Hư­ng Đạo Đại v­ương.
    Từ tháng sáu năm Canh Tý(1300), Trần Quốc Tuấn ốm nặng. Đến ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 3 tháng 9 năm 1300) ông trút hơi thở cuối cùng tại Vạn Kiếp.
   Theo sử sách, Trần Quốc Tuấn có soạn hai tác phẩm lý luận và nghệ thuật quân sự bằng chữ Hán là Binh gia diệu lý yếu l­ược(vẫn quen gọi là Binh Thư­ yếu l­ược) và Vạn Kiếp tông bí truyền th­ư . Văn bản gốc của hai tác phẩm này chắc đã thất truyền. Các văn bản còn lại sau này chỉ là các bản sao chép và có bổ sung thêm của các nhà nho triều Nguyễn thế kỷ thứ XIX. Đến nay chỉ còn bài Dụ chư­ tỳ t­ướng hịch văn vẫn quen gọi là  bài Hịch t­ướng sĩ . Đây là một áng văn chương chính luận cổ đặc sắc đồng thời cũng là một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng.
Dư­ới đây là nguyên văn bản dịch của tác phẩm này:
 
Hịch t­ướng sĩ
 
        Ta thư­ờng nghe Kỷ Tín 1 đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu 2 chìa lư­ng chịu giáo che chở cho Chiêu Vư­ơng; Dự Nh­ượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái 4 chặt tay cứu nạn cho nư­ớc; Kính Đức5 một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung ; Cảo Khanh 6 một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mư­u kế nghịch tặc. Từ xưa­ các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nư­ớc , đời nào không có?  Giả sử các bậc đó cứ kh­ư kh­ư , theo thói nữ nhi thư­ờng tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lư­u danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ đ­ược ?
       Các ng­ươi con nhà võ tư­ớng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xư­a ta không nói đến nữa, nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây:
       Vư­ơng Công Kiên 8 là ngư­ời thế nào ? Tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập 9 lại là ngư­ời thế nào, mà giữ thành Điếu Ng­ư 10nhỏ nh­ư cái đấu, đư­ờng đ­ường chống với quân Mông Kha 11 đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu ?
       Cốt Đãi Ngột Lang 12 là ngư­ời thế nào ? Tì t­ướng của ông là Xích Tu Tư­ lại là ngư­ời thế nào, mà xông vào chỗ lam chư­ớng xa xôi nghìn trùng,, đánh bại đư­ợc quân Nam Chiếu 14 trong vài tuần, khiến cho quân tư­ớng đời Nguyên đến nay còn l­ưu tiếng tốt ?
      Huống chi, ta cùng các ngư­ơi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đ­ường, uốn l­ỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ 15 thác mệnh Hốt Tất Liệt 16 mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam vư­ơng 17 mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào nh­ư đem thịt mà nuôi hổ đói, tránh sao cho khỏi gieo vạ về sau!
      Ta thư­ờng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như­ cắt, n­ước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chư­a đư­ợc xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa 18 ta cũng vui lòng.
     Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lư­ơng ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vuicười. Cách đối đãi so với Vư­ơng Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang cũng chẳng kém gì.
     Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy n­ước nhục mà không biết thẹn. Làm tư­ớng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc Thái thư­ờng 19 để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú v­ườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giầu mà quên việc n­ước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rư­ợu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mư­u lư­ợc nhà binh; Dẫu rằng ruộng lắm vư­ờn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua đ­ược đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi đ­ược quân thù; chén r­ượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngư­ơi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ?  Chẳng những thái ấp 20  của ta không còn, mà bổng lộc các ng­ươi cũng mất;  chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ng­ươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngư­ơi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tiếng xấu còn lư­u, mà đến gia thanh 21 các ngư­ơi cũng không khỏi mang tiếng là tư­ớng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ng­ươi muốn vui vẻ phỏng có đ­ược không ?
     Nay ta bảo thật các ngư­ơi nên nhớ câu: “ Đặt mồi lửa vào d­ưới đống củi” làm nguy cơ, nên lấy điều: “Kiềng canh nóng mà thổi  rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ tập dư­ợt cung tên, khiến cho ngư­ời người giỏi nh­ư Bàng Mông , nhà nhà đều là Hậu Nghệ 24; có thể bêu đ­ược đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết 25 , làm rữa thịt Vân Nam vư­ơng ở Cảo Nhai 26. Nh­ư vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngư­ơi cũng đời đời h­ưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta đư­ợc êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngư­ơi cũng đư­ợc bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được­ muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngư­ơi cũng đ­ược thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lư­u truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ng­ươi cũng sử sách lư­u thơm.Lúc bấy giờ,dẫu các ngư­ơi không muốn vui vẻ phỏng có đ­ược không?
     Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là “Binh th­ư yếu lư­ợc”.Nếu các ng­ươi biết chuyên tập sách này theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ 27 , nh­ược bằng khinh bỏ sách này,trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
     Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngư­ơi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc,muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ng­ươi biết bụng ta.
                                                   Bùi Văn Nguyên dịch
 
Chú thích:
     1.Kỷ Tín: tư­ớng của Hán Cao Tổ, ra hàng để giải vây cho Cao Tổ, bị Hạng Vũ giết.
     2.Do Vu: t­ướng của vua Sở, đời Xuân Thu, có công chìa l­ưng che cho vua Sở khỏi bị kẻ cư­ớp đâm.
    3.Dự Nh­ượng: ngư­ời nhà của Trí Bá đời Chiến quốc, nuốt than cho khác giọng , để lập m­ưu báo thù cho chủ.
    4.Thân Khoái: viên quan nhỏ đời Xuân Thu. Khi vua Tề bị giết Thân Khoái chết theo.
    5.Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đư­ờng, đã lấy mình che chở cho vua Đư­ờng thoát nạn.
    6.Cảo Khanh: khi An Lộc Sơn khởi loạn chống Đư­ờng Minh Hoàng, Cảo Khanh mắng An Lộc Sơn, bị cắt lư­ỡi, vẫn trung thành với vua Đư­ờng.
     7.Tống, Nguyên: hai triều đại Trung Quốc. Nhà Tống cùng thời với nhà Lý, còn nhà Nguyên(do Thái tử Mông Cổ là Hốt Tất Liệt diệt nhà Tống mà lập nên) cùng thời với nhà Trần.
     8+9:Vư­ơng Công Kiên,Nguyễn Văn Lập: tư­ớng nhà Tống
   10.Điếu Ng­ư : Tên một trái núi ở Tứ Xuyên, Kiên và Lập đóng ở đó, quân Mông Cổ đánh không đư­ợc.
   11.Mông Kha: anh của Hốt Tất Liệt, tức vua Hiến Tông nhà Nguyên.
   12.Cốt Đãi Ngột Lang; một t­ướng giỏi của quân Mông Cổ.
  13.Lam ch­ướng: do chữ Hán “lam sơn ch­ướng khí” rút gọn lại, có nghĩa là khí độc ở rừng núi.
  14.Nam Chiếu: một nư­ớc nhỏ ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
  15.Tể phụ: bậc quan đứng đầu giúp vua trị nư­ớc.
  16.Hốt Tất Liệt: tức vua Thế Tổ nhà Nguyên.
  17.Vân Nam vư­ơng: tức là Thoát Hoan, con thứ chín của Hốt Tất Liệt, đư­ợc phong vư­ơng ở đất Vân Nam.
  18.Gói trong da ngựa: rút trong câu nói của một viên t­ướng đời Hán, đại ý rằng: làm trai phải đánh đông dẹp bắc, dẫu chết ở chiến trư­ờng, lấy da ngựa bọc thây cũng đành lòng.
  19.Nhạc Thái thư­ờng: nhạc th­ường đ­ược dùng trong lễ hội quốc gia; ở đây phải dùng để tiếp đãi ngụy sứ tức là nhục đến quốc thể.
   20.Thái ấp; phần đất vua phong cho các quý tộc.
   21.Gia thanh: tiếng tăm của ông cha để lại.
  22.Đặt mồi lửa: rút ở sách xư­a, ý nói phải cảnh giác nh­ư nằm trên đống củi có mồi lửa ở d­ưới, dễ bị cháy nguy hiểm đến tính mạng.
   23.Kiềng canh nóng: rút ở câu thơ cũ, ý nói :kẻ sợ canh nóng thư­ờng phải thổi cả rau nguội, nghĩa là thận trọng.
    24.Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
    25.Cửa khuyết: cửa lớn ở kinh thành.
   26.Cảo Nhai: nơi tạm trú của các vua n­ước nhỏ láng giềng khi vào chầu vua Hán ở Tràng An. Đây m­ượn để chỉ nơi tiếp sứ n­ước ngoài của ta.
   27.Đạo thần chủ: đạo nghĩa giữa gia tư­ớng, gia nô(thần) với lãnh chúa(chủ). Trần Quốc Tuấn cũng là một lãnh chúa lớn.

 

8. TRẦN NGUYÊN ĐÁN (1325-1390)

     Trần Nguyên Đán hiệu là Băng Hồ, người hương Tức Mặc, lộ Thiên Trường, thuộc Nam Định ngày nay. Ông là chắt của Trần Quang Khải và là ông ngoại của Nguyễn Trãi.

     Là người thuộc dòng dõi tôn thất nên ông làm quan từ rất sớm. Dưới thời Trần Dụ Tông (1341-1369) làm quan Đại phu ở Đài ngự sử. Khi Dương Nhật Lễ thoán ngôi nhà Trần, ông đã có công đánh dẹp và đưa Trần Phủ lên làm vua (tức vua Trần Nghệ Tông,1370-1372). Dưới thời Trần Nghệ Tông ông được phong chức Tư đồ. Thời vua Trần Duệ Tông (1373-1377) được giao coi thêm việc quân ở trấn Quảng Oai và ban tước Chương Túc quốc thượng hầu. Nhưng lúc này nhà Trần đã suy, quyền lực dần dần tập trung vào tay Hồ Quý Ly.

    Trong hoàn cảnh phức tạp ấy, Trần Nguyên Đán cuối cùng đã phải chọn con đường kết thông gia với Hồ Quý Ly để mong tìm sự yên ổn cho con cháu. Mùa thu năm 1385 ông xin về trí sĩ ở Côn Sơn, cho xây dựng Thanh Hư động, công trình kiến trúc này trở thành một danh thắng nổi tiếng trong lịch sử. Tại đây Trần Nguyên Đán đã sống cuộc đời nhàn dật những năm cuối cùng. Ngày 14 tháng 11 âm lịch năm Canh Ngọ (20 tháng 12 năm 1390) ông mất tại Côn Sơn.

    Khi ông đang còn ốm nặng, Thượng hoàng Nghệ Tông thường đến nhà riêng thăm bệnh và hỏi việc về sau, Trần Nguyên Đán chỉ nói: “ Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nhà nước được vô sự, tôi dầu chết cũng không nát xương”. Như vậy theo Trần Nguyên Đán muốn cho đất nước được “vô sự’ thì phải xây dựng được một nền ngoại giao hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, đặc biệt là đối với các quốc gia lân cận.Trong thời buổi ấy, tư tưởng này của Trần Nguyên Đán là quá mới mẻ nên ông thường bị các sử gia sau này phê phán.

     Trước tác của ông có: Băng Hồ ngọc hác tập và Bách thế thông kỷ nhưng đã mất mát hầu hết. Lưu được đến ngày nay chỉ còn có 51 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục. Sau đây chúng tôi xin chọn giới thiệu một số bầi thơ của ông:

Bài 1

至櫺山鳳凰峰

 

雙鳳悠然望杳冥

鳳凰萬古愛芳名

麟峰塔倒如紅影

鼈水泉鳴作雨聲

危磴經年苍蘚合

断橋過雨黑芝生

松风日晚喧空響

相似来儀奏九成

                陳元旦

 

Phiên âm                                          

Chí Linh sơn Phượng Hoàng phong

Song phượng du nhiên vọng liểu minh,

Phượng Hoàng vạn cổ ái phương danh.

Lân Phong tháp bảo như hồng ảnh;

Miết thủy tuyền minh tháp vũ thanh.

Nguy đẳng kinh niên thương tiễn hợp;

Đoạn kiều quá vũ hắc chi sinh.

Tùng phong nhật vãn huyên không hưởng,

Tương tự lai nghi tấu cửu thanh.

 

Dịch nghĩa

Đỉnh Phượng Hoàng ở núi Chí Linh

Xa xa thấp thoáng đỉnh song phượng,

Núi Phượng Hoàng nổi tiếng tự ngàn xưa.

Tháp ở núi Lân nghiêng xuống như bóng cầu vồng,

Suối ở Miết thủy reo lên tựa tiếng mưa rơi.

Bậc đá cheo leo quanh năm rêu xanh phủ lấp,

Chiếc cầu gẫy sau cơn mưa rêu xanh mọc đầy.

Chiều tà gió nổi thông reo vang giữa trời,

Giống như chim Phượng hoàng về tấu chín khúc nhạc.

 

Dịch thơ

Song phượng dập dờn thấp thoáng xa,

Phượng Hoàng 1 nổi tiếng tự ngàn xưa.

Kỳ Lân 2 tháp ngả như vồng bóng;

Miết Thủy 3 suối gào giống tiếng mưa.

Dốc núi đá chồng rêu phủ lấp;

Tan mưa cầu gãy nấm đen mờ.

Chiều tà gió nổi thông reo hát,

Như phượng hoàng về tấu cửu ca 4.

         Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Phượng Hoàng: tên núi, nơi Chu Văn An đẫ về đây ở ẩn những năm cuối đời khoảng từ năm 1358- 1370, sau khi dâng “Thất trảm sớ” đòi chém 7 tên gian thần thời vua Trần Dụ Tông.

2.Kỳ Lân: tên núi ở Côn Sơn có nhiều am, nhiều tháp

3.Miết Thủy: tên suối, chắc là do vị trí của suối ở gần ao nuôi ba ba(Miết trì) nên gọi như vậy chăng?

4.Cửu ca: chín khúc ca.

 

Bài 2

題玄天紫極宮

耿耿三花数仞開

蹇林鬱秀絕雰埃

玉皇校籙紅雲擁

金母朝元翠葆回

春日早移花影動

秋風晚送鶴聲來

流光殿下松千樹

盡是擎天一手栽

               陳元旦

 

Phiên âm

Đề Huyền Thiên Tử cực cung

Cảnh cảnh tam hoa sổ nhận khai,

Kiển lâm uất tú tuyệt phân ai.

Ngọc hoàng hiệu lực hồng vân ủng;

Kim mẫu triều nguyên thúy bảo hồi.

Xuân nhật tảo di hoa ảnh động;

Thu phong vãn tống hạc thanh lai.

Lưu quang điện hạ tùng thiên thụ,

Tận thụ kình thiên nhất thủ tài.

 

Dịch nghĩa:

Đề cung Tử Cực 1 trong động Huyền Thiên 2

Trên cao mấy nhận rực rỡ hoa một năm nở ba mùa,

Khu rừng xanh tốt cách biệt bụi bặm.

Ngọc hoàng 3 đi tuần sát có mây hồng che phủ,

Kim mẫu 4 vào chầu có lọng xanh rước về.

Buổi sáng nắng xuân đẩy bóng hoa lay động,

Buổi chiều gió thu đưa tiếng hạc về.

Phía dưới điện Lưu quang có hàng nghìn cây thông,

Hết thảy các cây chọc trời ấy đều do một tay trồng.

 

Dịch thơ

Rực rỡ ba mùa hoa nở tươi,

Rừng đây xanh tốt cách xa đời.

Ngọc hoàng tuần sát mây chào đón;

Kim mẫu vào chầu lọng rước lui.

Nắng sớm xuân lay hoa khẽ động;

Gió chiều thu gọi hạc kêu hoài.

Lưu quang dưới điện nghìn thông đứng,

Thảy được tay người trồng cả thôi.

                     Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Tử cực cung: tên một công trình tôn giáo trong động Huyền Thiên.

2.Động Huyền Thiên: động là một vùng đất; động Huyền Thiên là vùng đất mang tên Huyền Thiên. Thời Trần đạo sĩ Pháp Vân đã tu tiên và luyện thuốc ở đây.Động Huyền Thiên có thể bao gồm cả khu vực đồi núi của xã Kiệt Đặc ngày xưa. Đại Việt sử ký toàn thư nói rõ rằng: “mùa đông, tháng mười (Mậu Thân năm thứ 11-1368), cho mời đạo sĩ ở Chí Linh là Huyền Vân đến kinh để hỏi về phép tu luyện. Đặt tên  cho động của đạo sĩ là động Huyền Thiên”.

3.Ngọc Hoàng: đạo giáo gọi các vị thần cai quản trên trời là ngọc hoàng.Ngọc hoàng nói trong câu thơ không phải là Ngọc Hoàng thượng đế-vị thần tối cao nhất của các vị thần trên trời.

4.Kim Mẫu: tên chỉ những người đàn bà thành tiên như Tây Vương Mẫu.

 5.Lưu Quang: tên một công trình tôn giáo khác cũng nằm trong động Huyền Thiên.

 

Bài 3                             

山中偶成

長安紫陌厭輕肥

好向崟山閉隱屝

乾葉耳喧風北起

虚庭目送日西歸

谁將綠鬢逢青眼

笑把黃花待白衣

眾醉我醒皆自可

殺身沽礜屈原非

                 陳元旦

 

Phiên âm

Sơn trung ngẫu thành

Trường an tử mạch yếm khinh phì

Hảo hướng ngâm sơn bế ẩn phi

Can diệp nhĩ huyên phong bắc khởi

Hư đình mục tống nhật tây quy

Thùy tương lục mấn phùng thanh nhãn

Tiếu bả hoàng hoa đãi lục y

Chúng túy ngã tinh giai tự khả

Sát thân cô dự Khuất Nguyên phi.

                         Trần Nguyên Đán

 

Dịch nghĩa:

Trong núi ngẫu nhiên làm thành thơ

Trên đường tía Trường An chán mặc áo lông nhẹ cưỡi ngựa béo

Thích đến nơi núi cao khép cánh cửa ở ẩn

Gió từ phương bắc thổi tới lá khô xào xạc bên tai

Trong sân vắng vẻ đưa mắt tiễn mặt trời lặn về phía tây

Ai đem mái tóc xanh gặp mắt xanh

Cười kẻ cầm bông hoa vàng đợi khách áo trắng

Mọi người say riêng ta tỉnh đều do nơi mình cả

Tự sát để mua tiếng khen như Khuất Nguyên là sai.

Dịch thơ

Áo lông ngựa béo ngán thay

Thèm về núi vắng tháng ngày thảnh thơi

Lá khô xào xạc bên tai

Sân quang mắt tiễn mặt trời về tây

Tóc xanh mắt biếc ai hay

Hoa vàng áo trắng dạ này thầm chê

Đã rằng ta tỉnh người mê

Mua danh tự sát hay gì Khuất Nguyên.

                                              Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Trường An: tên Kinh đô của Trung Quốc từ thời nhà Hán, nay còn có huỵện Tràng An thuộc Thiểm Tây(Trung Quốc). Người đời sau dùng từ Trang An để chỉ kinh đô. Ở đây Tràng An chỉ kinh đô nước Việt, lúc đó là Đông Đô.

2.Aó lông nhẹ, ngựa béo: dịch chữ “khinh phì”, nghĩa là rét thì mặc áo ấm làm bằng lông nhẹ, đi lại thì được dùng loại ngựa béo khỏe. Ở đây chỉ cảnh sống của các quan chức cao cấp của triều đình. Ý câu thơ nói tác giả đã chán cảnh sống cao sang phú quý của người làm quan rồi.

3. Mắt biếc: dịch từ chữ “thanh nhãn” có nghĩa là mắt xanh, lấy từ tích Nguyễn Tịch người đời Tấn (Trung Quốc), cao khiết nhưng ngạo đời, thường làm mắt xanh, mắt trắng, đụng khách là người cao thượng đến thì làm mắt có màu xanh để tiếp, đụng khách là người phàm tục đê tiện thì làm mắt có màu trắng để tiếp. Như vậy “mắt biếc” là tỏ ý tôn trọng. Ý cả câu thơ nói mấy ai ngay từ lúc đầu còn xanh đã gặp được người tôn trọng.

4. khách áo trắng: dich chữ “bạch y”, nghĩa là người mặc áo trắng. Ngày xưa bên Trung Quốc, những người chưa ra làm quan thì mặc áo trắng. Như vậy khách áo trắng tức là người dân thường không có chức vị xã hội gì.

5.Khuất Nguyên: nhà đại chí sĩ và đại văn hào thời Chiến Quốc, làm tôi nước Sở, nhưng thấy vua mê muội, triều chính suy tàn, bản thân mình lại không được dùng nên đau đời ghét tục, viết thiên Ly Tao để bày tỏ chí khí. Sau cùng ông tự trầm mình xuống sông Mịch La mà chết. Người Trung Quốc cúng tế ông vào ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm.

 

Bài 4

賀樵隐朱先生

拜國子司業
 

学海迴瀾俗再醇

上庠山斗得斯人

窮經愽史工夫大

敬老崇儒政化 新

布韈杗鞋歸永日

青頭白髮浴沂春

勲華只是垂裳治

爭得巢由作内臣

                陳元旦

 

Phiên âm:

Hạ Tiều Ẩn Chu tiên sinh

Bái Quốc tử tư nghiệp

Học hải hồi lan tục tái thuần

Thượng tường Sơn Đẩu đắc tư nhân

Cùng kinh bác sử công phu đại

Kính lão sung nho chính hóa tân

Bố miệt mang hài quy vĩnh nhật

Thanh đầu bạch phát dục nghi xuân

Huân hoa chỉ thị thùy thường trị

Tranh đắc Sào Do tác nội thần.

                         Trần Nguyên Đán

 

Dịch nghĩa:

Mừng ông Chu Tiều Ẩn  1 được bổ chức

Tư nghiệp ở Quốc tử giám. 2

Xoay làn song biển học làm cho phong tục lại được thuần hậu

Nhà trường đã được bậc đạo đức như Thái Sơn, Bắc Đẩu đến dạy

Đọc hết kinh xem rộng sử công phu rất lớn

Kính đạo Lão sung đạo Nho chính sự và giáo hóa được đổi mới

Ngày ông mang tất vải giầy cỏ vừa đi vừa hát mà về

Người trẻ người già cùng tắm trong mùa xuân sông Nghi 3

Các vua Phòng Huân và Trùng Hoa  4 chỉ ngồi rủ xiêm trị nước

Bởi có ông Sào ông Do  5 làm bề tôi trong triều.

 

Dịch thơ

Xoay biển học cải tục thuần

Nhà trường đón được kỳ nhân trở về

Thông kinh bác sử ai bì

Sùng Nho kính Lão mọi bề canh tân

Ông về hài cỏ đẹp chân

Trẻ già tắm nước Nghi xuân thỏa lòng

Nhà vua rủ áo thong dong

Có Sào-Do sẵn góp công trị vì.

                          Đỗ Đình Tuân dịch

 

Chú thích

1.Chu Tiều Ẩn: tức Chu Văn An

2.Quốc tử giám: trường dạy con em các bậc công khanh, quyền quý trong nước.

3.Sông Nghi: tức Nghi Thủy, một con sông ở tính Sơn Đông, quê hương của Khổng Tử.

4.Phóng Huân, Trùng Hoa : tức vua Nghiêu và vua Thuấn

5.Ông Sào, ông Do: tức Sào Phủ và Hứa Do là hai ẩn sĩ đời Nghiêu Thuấn 

 

Bài 5

秋日

臨流茅舍板屝扃

小圃秋深兴轉清

梅早匊芳賢子弟

松苍竹瘦老公卿

樹喧風怒心難動

雲盡天高眼自明

西望煙花非昔日

蓴鱸思遠不禁情

               陳元旦

 

Phiên âm

Thu nhật

Lân lưu mao xá bản phi quynh,

Tiểu phố thu thâm chuyển thú thanh.

Mai tảo cúc phương hiền tử đệ;

Tùng thương trúc sấu lão công khanh.

Thu huyên phong nộ tâm nan động;

Vân tận thiên cao nhãn tự minh.

Tây vọng yên hoa phi tích nhật,

Thuần lô tứ viễn bất câm tình.

                          Trần Nguyên Đán

 

Dịch nghĩa:

Ngày thu

Ngôi nhà tranh bên sông khép cánh cửa ván,

Trong vườn nhỏ giữa mùa thu cảm thấy rất thanh thú.

Mai nở sớm cúc đưa hương các đệ tử đều là người hiền,

Thông xanh trúc gầy giống như người công khanh già.

Cây rộn gió gào lòng không lay động,

Trời cao mây tạnh mắt ta sáng sủa.

Trông về tây cảnh yên hoa 1 đã khác xưa,

Rau thuần cá vược  2  nghĩ ngợi xa xôi mối tình khôn xiết.

Dịch thơ

Bên sông nhà ghép ván quanh

Ngày thu vườn nhỏ thú thanh thản lòng

Cúc mai đệ tử vui cùng

Trúc gầy thông biếc làm công khanh già

Trời trong cho mắt sáng ra

Gió gào cây rộn lòng ta vẫn bền

Phồn hoa ngoảnh lại nhìn xem

Rau thuần cá vược nỗi niềm mang mang.

                                     Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Yên hoa: khói và hoa, yên hoa ở đây chỉ cảnh sống phồn hoa. Yên hoa cũng là tên của một phường ở kinh đô, cho nên ở đây có ý chỉ cảnh sống nơi kinh đô.

2.Rau thuần cá vược: dịch chữ “thuần lô”, lấy ý từ tích  Trương Hàn nhà Tấn (Trung Quốc), thấy cơn gió thu, sực nhớ đến món canh rau thuần nấu với cá vược chốn quê nhà muốn bỏ quan trở về. Ở đây câu thơ nói tâm trạng tác giả đã gắn bó với cảnh sống ẩn dật ở chốn quê mùa(Côn Sơn Chí Linh).

 

Bài 6

山中遣兴

十年正省負秋燈

松下行吟倚瘦藤

隨馬望塵無俗客

叩門問字有詩僧

退閒綠野知何及

散級青苗謝不能

坐待功成名遂後

一丘老骨已崚嶒

                陳元旦

Phiên âm:

Sơn trung khiển hứng

Thập niên chính tỉnh phụ thu đăng,                                        

Tùng hạ hành ngâm ỷ sấu đằng.

Tùy mã vọng trần vô tục khách

Khấu môn vấn tự hữu thi tăng

Thoái nhàn lục dã tri hà tập

Tán cấp thanh miêu tạ bất năng.

Tọa đãi công thành danh toại hậu,

Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng.

Dịch nghĩa:

Trong núi cảm hứng

Mười năm lo việc chính sự phụ với ngọn đèn mùa thu,

Dưới hàng thông chống chiếc gậy song khẳng khiu vừa đi vừa ngâm.

Không có khách tục theo ngựa ngóng bụi trần,

Chỉ có vị thi tăng gõ cửa hỏi chữ.

Lui về sống an nhàn ở nơi lục dã biết còn kịp chăng?

Chia tiền theo phép thanh miêu xin từ không giám.

Ngồi đợi đến sau này công thành danh toại,

Thì một nắm xương tàn đã vùi lấp thành gò cao.

Dịch thơ

Mười năm tham chính phụ đèn thu

Gậy bước dưới thông hát gật gù

Không kẻ theo xe vời cát bụi

Có người hỏi chữ một nhà sư

Kịp chăng lục dã lui về ẩn

Theo phép thanh miêu hãy cáo từ

Đợi lúc công thành danh được toại

Xương khô một nắm đắp trong mồ.

                          Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Phép thanh miêu: một chính sách kinh tế của Vương An Thạch, tể tướng thời vua Tống Thần Tôn, chủ trương khi lúa còn xanh thì nhà nước cho nông dân vay tiền, đến khi lúa chín thì nông dân phải trả lại nhà nước cả gốc lẫn lãi.

 

Bài 7

題譜賴山大明寺

用少保張公韻

 

塵起絲紛歲月流

飽帆風送倘來遊

鐘撞鯨吼天山動

塔湧鰲簪巨浪浮

關月塞煙悲客思

朝雲暮雨羨僧幽

平淮勲業鐫崖石

俯鑑清漪未白頭

                陳元旦

 

Phiên âm:

Đề Phả lại sơn Đại Minh tự              

Trần khối ty phân tuế nguyệt lưu,

Bão phàm phong tống thảng lai du.

Chung chàng kình hống thiên sơn động;

Tháp dũng ngao trâm cự lãng phù.

Quan nguyệt tái yên bi khách tứ ;

Triêu vân mộ vũ tiện tăng u.

Bình hoài huân nghiệp thuyên nhai thạch,

Phủ giám thanh y vị bạch đầu.

                      Trần Nguyên Đán

Dịch nghĩa:

Đề chùa Đại Minh 1 trên núi Phả Lại 2

Bụi rối tơ nổi năm tháng trôi qua,

Gió thổi buồm căng ngẫu nhiên có cuộc đi chơi.

Chuông khua như tiếng cá kình rống nghìn núi rung động,

Tháp nhô lên như con ngao cài trâm nổi cơn sóng dữ.

Trăng cửa ải khói biên cương lòng khách u buồn,

Mây buổi sớm mưa ban chiều hâm mộ cảnh thiền tịch mịch.

Công nghiệp bình hoài được khắc vào đá núi,

Cúi soi làn nước trong thấy mình chưa bạc đầu.

Dịch thơ

Năm tháng vèo qua loạn rối tinh

Ngẫu nhiên buồm gió dạo chơi quanh

Chuông khua kình rống nghìn non động

Tháp đứng ngao nhô ngọn sóng dềnh

Biên ải gió trăng lòng  quạnh vắng

Cửa thiền mưa nắng cảnh buồn tênh

Bình Hoài công nghiệp ghi bia đá

Dòng biếc nhìn coi tóc vẫn  xanh.

                               Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Chùa Đại Minh: tên ngôi chùa xây dựng trên đỉnh núi Phả Lại ngày xưa. Hiện nay không thấy còn dấu vết gì. Núi Phả lại đã trở thành một khu dân cư đông đúc.

2.Núi Phả Lại: tên quả núi độc lập đứng bên bờ sông, thuộc địa phận làng Phả Lại nay thuộc về huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Không hiểu từ bao giờ và lý do tại sao tên quả núi bên kia sông lại “nhảy”sang bên Phao Sơn để thành tên thị trấn Phả Lại ngàynay,khác hẳn với ngày xưa như ca dao đã nói: «Ai đưa em đến chốn này / Bên kia Phả Lại, bên này thành Phao » (?)

 

Bài 8

題玄天觀

白日升天易

致君堯舜難

塵埃六十載

回首愧黄冠

        陳元旦                                

Phiên âm:

Đề Huyền Thiên quán

Bạch nhật thăng thiên dị,

Trí quân Nghiêu Thuấn nan.

Trần ai lục thập tải,

Hồi thủ quy hoàng quan!

Dịch nghĩa:

Đề quán 1 Huyền Thiên 2

Ban ngày bay lên trời còn dễ,

Giúp vua để được như Nghiêu Thuấn 3 mới khó.

Sáu mươi năm sống trong cõi trần,

Ngoảnh lại vốn thẹn với người đội mũ vàng 4!

Dịch thơ

Ban ngày lên trời dễ

Giúp vua Nghiêu Thuấn khó

Sáu chục năm quay về

Thấy mũ vàng xấu hổ.

              Đỗ Đình Tuân dịch

Chú thích

1.Quán: nơi đạo sĩ - những người tu hành theo đạo Giáo - ở.

2.Huyền Thiên: tên vùng đất nay thuộc địa phận khu dân cưu Hữu Lộc phường Văn An thị xã Chí Linh, tương truyền xưa Huyền Thiên thượng đế xuống luyện thuốc đan ở đây.

3.Nghiêu Thuấn: hai ông vua thời cổ đại trong lịch sử Trung Quốc.Nghiêu, họ là Y Kỳ, tên là Phóng Huân, lên ngôi năm 2357 trước công lịch. Thuấn, họ Diêu, tên là Trùng Hoa, lên ngôi năm 2288 trước công lịch. Thời đế Nghiêu gọi là nhà Đường (khác với nhà Đường sau này).Thời Đế Thuấn gọi là nhà Ngu. Đây là hai thời đại được coi là  mẫu mực của thời thái bình thịnh trị, trở thành ước mơ của rất nhiều chính khách sau này.

4. Mũ vàng: dịch chữ “hoàng quan”, ở đây chỉ y phục của đạo sĩ. Ý câu thơ nói quay đầu lại thẹn với những người đạo sĩ. Khi bình bài thơ này Hồ Nguyên Trừng có nhận xét: “Có lẽ khi còn làm Tể tướng, thấy mình không có công trạng gì, mới thốt ra lời than như vậy, đó cũng là do ưu ái trong lòng, mối tình  trung hậu, đó là chỗ khả thủ của thi nhân chăng?”

 

9. NGUYỄN PHI KHANH (1356-1429)
 
               Nguyễn Phi Khanh vốn tên là Nguyễn ứng Long, hiệu là Nhị Khê, người làng Chi Ngãi huyện Phượng Sơn (sau đổi là Phượng Nhỡn), lộ Lạng giang (nay thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương). Sau di cư đến huyện Thường Phúc, châu Thượng Phúc, lộ Đông Đô, xứ Sơn Nam thượng (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) dạy học. Nguyễn ứng Long xuất thân nghèo khổ nhưng có tài nên được quan Tư đồ Trần Nguyên Đán mời làm gia sư để “kèm cặp” cho cô con gái lớn là Trần Thị Thái (Theo Nguyễn Trãi kể thì mẹ ông là con thứ ba của Trần Nguyên Đán). 
               Không ngờ thày trò yêu nhau làm cô Thái có thai. Trước tình thế “nguy hiểm” ấy, Nguyễn ứng Long đã vô cùng hoảng sợ bèn bỏ trốn. Rất may là Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán vốn biết người và độ lượng đã cho tìm về và nói với Ứng Long rằng: “Người đời xưa đã có việc này, không thấy chuyện Văn Quân với Tương Như sao? Nếu được như Tương Như để tiếng đời sau thì ta cũng bằng lòng”. Ngay sau đó ông đã tác thành cho đôi trẻ và tạo điều kiện cho Nguyễn Ứng Long dùi mài kinh sử.
               Từ đó Nguyễn ứng Long ra sức học hành sôi kinh nấu sử mong đáp lại ý nguyện của Trần Nguyên Đán. Năm 1374, lúc mới có 19 tuổi ông đã đỗ Tiến sĩ. Những người cùng thi đỗ với ông lần lượt đều được triều đình bổ dụng. Riêng trường hợp của Nguyễn Ứng Long thì Thượng hoàng Nghệ Tông phán rằng: “Bọn ấy lấy vợ con nhà phú quý, là kẻ dưới mà phạm người trên, bỏ không dùng”. Vì thế mà suốt 26 năm còn lại của nhà Trần, Nguyễn ứng Long không được ra làm quan,chỉ ngồi dạy học ở làng Ngọc ổi. Học trò làng Ngọc ổi sau này nhớ ơn ông  mới đổi tên làng mình từ Ngọc Ổi thành Nhị Khê.
               Đến thời Hồ Quý Ly ông mới đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và ra làm quan cho nhà Hồ. Lần lượt thăng trải qua các chức: Học sĩ Viện hàn lâm,Thông chương đại phu, Tư nghiệp Quốc tử giám… Khi nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, ông cùng với nhiều quan chức khác đều bị bắt đưa về Kim Lăng (Trung Quốc). Một người con trai của ông là Nguyễn Phi Hùng (em Nguyễn Trãi) đi theo cha, sau khi ông mất, di hài ông được mang về nước, chôn cất tại núi Báo Đức, thôn Đá Bạc, xã Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh ngày nay.
               Nguyễn Phi Khanh còn để lại các tác phẩm: Nhị Khê thi tập, Nguyễn Phi Khanh thi văn tập, Thanh Hư động ký, Diệp mã nhi phú. Nguyên cảo các sách này viết bằng chữ Hán và đều thất truyền. Số thơ văn hiện còn đến ngày nay là được chép trong các tập:Việt âm thi tập, Quần hiền phú tập, Toàn Việt thi lục...Sau đây chúng tôi xin trích giới thiệu một số ít bài:
                                               
Bài ký động Thanh Hư 1
(Bản dịch bài Thanh Hư động ký)
 
            Trong việc “xuất”, “xử” của kẻ hiền đạt, thì “xuất” là để hành động theo lẽ trời, “xử” là để tìm thú yên vui, cũng theo lẽ trời. Trời là gì? Là cái chí thanh, chí hư, chí đại đó thôi! Bốn mùa thành năm mà không tỏ ra có công, vạn vật chịu ơn mà không lộ rõ dấu vết. Không phải trời là chí thanh, chí hư, chí đại thì đâu được như thế?
               Tướng công Băng Hồ 2 của ta, lấy cái tài trời xây núi dựng để quyết định mưu lược cho nhà vua, làm rường cột cho tông xã. Khi xẩy ra cuộc biến Đại Định 3, Người đã có công dẹp yên nội loạn. Trong lúc vận nước đương như treo trên sợi tóc, Người một mình gánh vác công việc của những ngày nước nhà điêu đứng vậy. Đó chính là buổi đầu của việc xây dựng trời đất. Nếu không phải Người đã hành động theo lẽ trời thì có thể làm như thế được chăng? Đến khi tình hình hỗn loạn đã được dập tắt, hiệu quả của việc nhân nghĩa đã tỏ rõ, vương nghiệp đã vững như âu vàng, nước nhà đã yên như bàn thạch, thì cái chí của Lưu Hầu, Tấn Công 4 mới mạnh mẽ như không có gì ngăn cản được Người nữa, đây lại là một dịp để tỏ rõ sự sáng suốt giữ mình của Người vậy. Nếu không phải Người biết tìm thú yên vui theo lẽ trời, lại có thể như thế được chăng?
               Bấy giờ Người mới tâu xin một khu đất hoang ở Côn Sơn,5 sắp đặt cất một ngôi nhà để làm nơi lui về nghỉ ngơi. Hai đức vua6 khen ngợi công lao trước đây của Tướng công, không ép buộc cái chí của Người, vì vậy thể theo với ý của Người. Người bèn tìm nơi thích hợp, xem xét hình thế. Một tiếng trống vang, muôn người xúm lại, phạt bụi san đồi, thế là nguồn suối được gạn trong, cỏ rác được dọn sạch, phu thợ đủ các nghề, xây đắp không nghỉ. Chưa đầy một tháng mà việc dựng cột, xây tường đều xong, chỗ cao khoáng khoát, Chỗ thấp bằng phẳng, đứng xa trông chỉ thấy một mầu xanh, khu đông vây bọc, những cảnh kỳ lạ và đẹp đẽ, các nơi nghỉ ngơi chơi ngắm đều có đặt tên riêng, nhưng tất cả khu đó được gọi chung là “Thanh Hư động”.
               Sau khi làm xong, đức vua Duệ Tông tự tay làm bài bia, khắc vào trước cửa động. Đức Thái Thượng hoàng 7tự tay làm bài minh, khắc dưới lèn đá, ý đều là để nêu công lớn trước đây cuả Người, và cũng là để tỏ sự khuyến khích và khen ngợi Người vậy. Sau khi Người từ giã triều đình về nghỉ ở đây, có khi rong ngựa chơi vùng Gia Lâm, có khi chèo thuyền dạo miền Bình Than 8. Hoặc có lúc cùng bạn như Tạ Phó đi chơi núi, hoặc có lúc hát bài từ “Quy khứ” của Đào Tiềm 9. Đầu bịt chiếc khăn, lững thững bên đèo. Khói ngàn , ráng đỏ, như gấm cuốn, như lụa giăng; cỏ rừng, hoa suối, hoặc mầu biếc đung đưa, hoặc mầu hồng rực rỡ. Cảnh mát dịu, trong lành, thơm đến muốn nuốt, xinh đến muốn ăn. Phàm những cái gọi là hình trạng trong mát, tiếng vi vu, xa xa mà vắng không, sâu thẳm mà lặng lẽ, hợp với sự mong mỏi của tai mắt và tinh thần, đều hầu như đã hòa với bầu trời mênh mông mà vui chơi ra ngoài cõi vật. Ôi! trong vũ trụ, tạo hóa bày ra những cảnh như thế để chờ đợi người cũng nhiều. Nhưng dịp thành công như Tiêu Hà10 là người chỉ huy có tài còn bị cùm trói; Mã Viện 11 là người có mối chí thân trong tiêu phòng còn bị dèm pha, đó chẳng phải là họ làm nên công trạng, mà không biết con đường lui đó ư ? Đến như Vĩnh Thúc 12 mười lần dâng sớ xin nghỉ, mà chí nhớ đất Dĩnh chưa thỏa, Ôn Công 13 một năm ốm đến sáu tháng, mà lòng nhớ đất Lạc không nguôi, đó chẳng phải là việc lui về nghỉ ngơi cũng có khi phải chờ đợi mà khó được đó ư ?
               Nay Tướng công ta, lúc đầu trời đã giúp cho cái hội công danh; về sau lại dành cho cái thú sơn thủy, khỏi được tiếng thành công mà không biết đường lui, khỏi cái nỗi phải thở than vì lui về không được. Ấy là khi “xuất” với “xử”, khi “động” với “lạc” đều là theo lẽ trời. Vậy còn phàn nàn gì về cái ý tạo vật đã đãi người? Ôi! thân phận một kẻ đại thần, khi tiến, khi lui, đều có quan hệ đến vận mệnh của nước nhà, cho nên người quân tử vẫn ôm mối lo suốt đời, nào phải như kẻ bỉ phu thờ vua, đã lo được lại lo mất, khi được thì a dua, nịnh hót, chẳng việc gì là chẳng làm; khi mất thì hắt hủi bỏ đi, trong lòng hậm hực. Như vậy, sao đáng cùng họ mà bàn việc “xuất” và “xử” của người hiền đạt được?
               Than ôi! Trời đất quang tạnh khó lường; hào kiệt kinh luân có hội. Ứớc gì được bay bổng lên giữa khoảng trời trong mát, xanh biếc kia để cùng vui chơi ở chỗ mà tạo hóa đã sắp đặt để chờ Người?
 
           Tháng chạp năm Giáp Tý,
       niên hiệu Xương Phù thứ tám(1384)
       Nhị Khê Nguyễn Phi Khanh ghi
                                                                                                                                                                                        Trần Lê Sáng dịch
 
Chú thích:
               1-Động Thanh Hư: ở núi Côn Sơn, trước thuộc huyện Phượng Sơn, nay thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
               2-Băng Hồ: tên hiệu của Trần Nguyên Đán, nhạc phụ của Nguyễn Phi Khanh.
               3-Đại Định: niên hiệu của Dương Nhật Lễ.
               4-Lưu Hầu: tước phong của Trương Lương, người đời Hán. Tấn Công: tước phong của Bùi Độ, người đời Đường. Hai người này sau khi lập được công lớn đều xin về nghỉ.
               5-Côn Sơn: tên một quả núi , trước thuộc huyện Phượng Sơn, nay thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
               6-Hai đức vua: chỉ Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông.
               7-Thái Thượng hoàng: chỉ Trần Nghệ Tông.
               8-Miền Bình Than: vùng sông Lục Đầu, nay thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
               9-Tạ Phó: tức Tạ An. Tạ An và Đào Tiềm là những nhà ẩn dật nổi tiếng đời Tấn bên Trung Quốc.
               10-Tiêu Hà: Một trong những công thần của Hán Cao Tổ (Lưu Bang), giữ chức Tướng quốc. Trong thời kỳ làm quan có lần ông bị bắt giam. Về sau nhà Tây Hán tìm cách giết công thần, Tiêu Hà phải đi ở ẩn để lánh nạn.
               11-Mã Viện: danh tướng nhà Đông Hán, có con gái làm Hoàng hậu. Có lần Mã Viện đi đánh giặc, đem về mấy xe ý dĩ, có người nói dèm với vua rằng ông mang mấy xe vàng ngọc về nhà.
               12-Vĩnh Thúc: tên chữ của Âu Dương Tu, người đời Tống. Ông là một hiền sĩ nổi tiếng, có chí ẩn dật, đất Dĩnh là quê của ông.
                13-Ôn Công: biệt hiệu của Tư Mã Quang, một người hiếu học đời Tống, bị Vương An Thạch đầy ra đất Lạc. Sau về làm Tể tướng được tám tháng thì mất
 
Một số bài thơ:
 
家園樂
 
故園亂後有先盧
六歲兒童頗愛書
啼鳥落花深巷永
涼風殘夢午窻虚
心從閑處千憂失                  
学到充時四體舒
逐物勞人休誤我                  
安仁志已遂幽居       
                阮飛卿
 
Phiên âm
Gia viên lạc
Cố viên loạn hậu hữu tiên lư
Lục tuế nhi đồng phả ái thư
Dề điểu lạc hoa thâm hạng vĩnh
Lương phong tàn mộng ngọ song hư
Tâm tòng nhàn xứ thiên ưu thất
Học đáo sung thời tứ thể thư
Trục vật lao nhân hưu ngộ ngã
An nhân chí dĩ tại u cư.        
                              Nguyễn Phi Khanh
 
Dịch nghĩa:
Thú quê nhà
Sau loạn trong vườn cũ còn mái nhà xưa
Đứa trẻ sáu tuổi đã ham đọc sách
Chim kêu hoa rụng ngõ sâu vắng vẻ
Gió lạnh mộng tàn song trưa trống trải
Lòng hướng về cái nhàn ngàn mối lo tan hết
Học đến mức sung mãn chân tay thư thái
Chạy theo vật dục người đời nhọc nhằn ta chớ lầm nữa
Được ở chỗ thanh u chí an nhàn đã toại rồi.
 
Dịch thơ
Loạn về vườn cũ nhà xưa
Đứa con sáu tuổi đã ưa sách đèn
Chim kêu hoa rụng trước thềm
Ngõ sâu gió lạnh mộng tàn song trưa
Hướng nhàn lòng hết âu lo
Học càng sâu rộng càng thư thái người
Chạy theo vật dục kệ đời
Chí nhàn ta đã toại rồi u cư.
                        Đỗ Đình Tuân dịch
 
遊崑山
 
一筇山上柱雲烟
回首塵埃路隔千
雨後泉聲流簌簌
天晴嵐氣淨涓涓
百年浮世人皆夢
半日偷閑我亦仙
兴去欲來僧院宿
昏鍾崔月挂峰前
               阮飛卿
 
Phiên âm
Du Côn Sơn
Nhất cùng sơn thượng trụ vân yên
Hồi thủ trần ai lộ cách thiên
Vũ hậu tuyền thanh lưu tốc tốc
Thiên tình lam khí tịnh quyên quyên
Bách niên phù thế nhân giai mộng
Bán nhật thâu nhàn ngã diệc tiên
Hứng khứ dục lai tăng viện túc
Hôn chung thôi nguyệt quải phong tiền.
 
Dịch nghĩa
Chơi Côn Sơn
Một cây gậy trúc chống khói mây trên núi
Ngoảnh lại chốn bụi bặm đường cách xa nghìn dặm
Sau mưa tiếng suối chảy ầm ầm
Trời tạnh lam chướng sạch làu làu
Cuộc phù thế trăm năm người người đều như mộng
Trộm cái nhàn nửa ngày ta cũng là tiên
Hứng đã hết muốn đến chùa nghỉ
Chuông chùa dục trăng treo trước núi.
 
Dịch thơ
Gậy trúc trên non chống khói mây
Ngoái nhìn trần thế cách nghìn cây
Sau mưa tiếng suối ầm ầm chảy
Trời tạnh sương lam phảng phất bay
Phù thế trăm năm người thảy mộng
Nửa ngày nhàn thú tớ tiên đây
Hứng vơi muốn đến nhà chùa nghỉ
Chuông giục trăng treo trước núi này.
                       Đỗ Đình Tuân dịch
 
 
村居感事寄呈冰壺相公
 
稻畦千里赤如燒
田野咻嗟意不聊
后土山河方滌滌
皇天雨露正迢迢
吏胥網罟渾多竭
民命膏脂半已消
好把新詩當奏牘
只今卧病未能朝
              阮飛卿
 
Phiên âm
Thôn cư cảm sự ký trình
Băng Hồ tướng công
Đạo huề thiên lý xích như thiêu
Điền dã hưu ta ý bất liêu
Hậu thổ sơn hà phương địch địch
Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều
Lại tư võng cổ hồn đa kiệt
Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu
Hảo bả tân thi đương tấu độc
Chỉ kim ngọa bệnh vị năng triều.
                      Nguyễn Phi Khanh
 
Dịch nghĩa :
Ở quê xúc động trước sự việc xẩy ra
gửi trình tướng công Băng Hồ
Ruộng nương nghìn dặm đỏ như cháy
Đồng quê than van không biết trông cậy vào đâu
Non sông của Hậu thổ (1) đang nứt nẻ
Mưa mọc của Hoàng thiên  (2) hãy còn xa vời
Lưỡi tham quan lại vơ vét hết kiệt
Mỡ màng củ dân đã cạn mất nửa
Xin đem bài thơ mới này thay cho tờ tấu
Hiện nay đang nằm trên giường bệnh chưa thể đến chầu được.
 
Ghi chú :
1. Hậu thổ : thần đất
2. Hoàng thiên : trời
 
Dịch thơ
Lúa đồng ngàn dặm đỏ như thiêu
Thôn xóm than phiền chẳng chỗ kêu
Đất rộng mênh mông đều nứt nẻ
Trời cao thăm thẳm cứ trong veo
Tham quan miệng lưỡi vơ hầu hết
Mầu mỡ dân gian nửa đã tiêu
Dâng áng thơ này thay biểu tấu
Hiện đang nằm bệnh chửa lai triều.
                        Đỗ Đình Tuân dịch
 
 
客路
 
生世那堪賤丈夫
離襟忍帯淚痕枯
日沉建嶺冥投舘
雪霽長州曙戒途
天地未容斯道捨
江山肯外此身孤
明詩倘效毫分補
萬里寜辭我僕痡
              阮飛卿 
 
Phiên âm
Khách lộ
Sinh thế na kham tiện trượng phu
Ly khâm nhẫn đới lệ ngân khô
Nhật trầm Kiến Lĩnh  minh đầu quán
Tuyết tĩnh Trường Châu tự giới đồ
Thiên địa vị dung tư đạo xả
Giang sơn khẳng ngoại thử thân cô
Minh thời thảng hiệu hào phân bổ
Vạn lý ninh từ ngã bộc phu.
                       Nguyễn Phi Khanh
 
 
Dịch nghĩa
Đường khách
Sống trên đời chịu sao được tiếng trượng phu hèn
Vạt áo chia ly đành mang theo ngấn lệ khô
Mặt trời lặn trên Kiến Lĩnh  (1) nhá nhem tìm quán trọ
Tuyết ráo đất Trường Châu (2) tảng sáng dậy dò đường
Trời đất chưa nỡ để đạo này bị xóa bỏ
Non sông cũng chưa bỏ ra dìa tấm thân cô đơn này
Ví chăng có gắng gỏi báo đáp được mảy may nào cho đời thịnh
Đường đi vạn dặm dù thầy tớ mệt nhoài đâu dám từ nan.
 
Ghi chú: 1+2 đều chưa rõ là vùng nào (?)
 
Dịch thơ
Chịu sao được tiếng trượng phu hèn
Vạt áo chia ly khô lệ hoen
Kiến Lĩnh bóng chìm tìm quán trọ
Trường Châu tuyết ráo dặm đường lên
Sâu xa đạo ấy trời đâu bỏ
Đơn độc thân này nước chẳng quên
Gắng gỏi chút công phò nước thịnh
Dù xa khó mấy nguyện gan bền.
                         Đỗ Đình Tuân dịch
 
 題玄天寺
 
仙家一簇聳雲岑
路入煙蘿窅窕深
樹影長年圍古簡
花枝清午囀幽禽
官閑我得修身訣
老去天知学道心
若見赤松憑寄語
佳遊何日果幽尋
               阮飛卿
 
Phiên âm:
Đề Huyền Thiên tự (1)
Tiên gia nhất thốc tủng vân sàm,
Lộ nhập yên la yểu điệu thâm.
Thu ảnh trường niên vi cổ giản;
Hoa chi thanh ngọ chuyển u cầm.
Quan nhàn ngã đắc tu thân quyết,
Lão khứ thiên tri học đạo tâm.
Nhược kiến Xích Tùng 2 bằng ký ngữ,
Gia du hà nhật quả u tầm.
              Nguyễn Phi Khanh
 
Dịch nghĩa:
Đề chùa Huyền Thiên
Một tòa nhà tiên cao ngất từng mây,
Đường vào dây leo khói phủ sâu thăm thẳm.
Bóng cây quanh năm vây dòng suối cũ,
Buổi trưa thanh vắng trên cành hoa vẳng tiếng chim líu lô.
Quan nhàn hạ ta tìm được bí quyết tu thân,
Già đi rồi lòng học đạo đã có trời biết.
Nếu thấy vị tiên Xích Tùng nhớ nhắn một lời,
Đến ngày nào mới có cuộc chơi hứng thú ở chốn thanh vắng.
 
Ghi chú 
1. Huyền Thiên tự : tên một ngôi chùa xây dựng từ đời Lý, Mở rộng quy mô ở đời Trần, hiện nay vẫn còn dấu tích và được dân địa phương bước đầu xây dựng lại. Huyền Thiên tự nay thuộc địa phân khu dân cư Hữu Lộc phường Văn An thị xã Chí Linh.
2. Xích Tùng : Biệt hiệu của một vị tiên.
 
Dịch thơ
Nhà tiên một khóm cao cao
Dây leo khói phủ đường vào âm âm
Cây rừng vây suối quanh năm
Líu lo chim hót trên cành hoa trưa
Quan nhàn ta học phép tu
Già rồi trời có biết cho lòng này
Xích Tùng xin hỏi có hay
Bao giờ mới được thú này tại đây ?
                     Đỗ Đình Tuân dịch

10, NGUYỄN TRÃI (1380-1442)           

            Nguyễn Trãi hiệu là Ưc Trai, sinh năm 1380 tại Thăng Long, trong dinh quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Quê cha ở làng Chi Ngãi, huyện Phượng Sơn (sau đổi là Phượng Nhãn) lộ Lạng giang, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau cha ông lại dời quê đến làng Ngọc ổi, huyện Thượng Phúc, xứ Sơn Nam thượng (tức làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây ngày nay).
         Thuở nhỏ Nguyễn Trãi sống trong dinh ông ngoại (Trần Nguyên Đán) ở Thăng Long. Năm 1385, Trần Nguyên Đán xin về hưu ở Côn Sơn thì mẹ con ông cũng theo về ở tại đây. Sau khi mẹ và ông ngoại mất ông mới về Ngọc ổi ở với cha và được cha trực tiếp dạy dỗ.
          Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (23 tháng 3 năm 1400), Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần lập ra nước Đại Ngu. Cũng năm ấy Nguyễn Trãi dự kỳ thi đầu tiên do nhà Hồ mở và đậu Thái học sinh (Tiến sĩ), được Hồ Quý Ly trao cho chức Ngự sử đài chánh chưởng. Năm 1407, nhà Hồ bị quân minh đánh bại. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cùng với nhiều quan chức cao cấp khác của triều đình nhà Hồ đều bị bắt đưa về Kim Lăng (Trung Quốc). Nguyễn Trãi có theo cha lên đến ải Nam Quan. Sau đó nghe theo lời di huấn của cha, ông trở về: “tìm cách rửa hận cho nước, báo thù cho cha”. Nhưng về đến thành Đông Quan ông lại bị tướng nhà Minh là Trương Phụ bắt, dụ ông ra làm quan nhưng ông không nhận. Trương Phụ định đem giết đi, nhưng nhờ được Thượng thư Hoàng Phúc can gián nên ông chỉ bị giam lỏng ở phía nam thành.
               Trong khoảng thời gian từ 1407 đến khoảng1416 chưa rõ Nguyễn Trãi chỉ ở Đông Quan hay có đi đâu không? Ngay đến thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn tự bao giờ cũng còn nhiều ý kiến khác nhau: Có thuyết cho rằng ông tham gia từ hội thề Lũng Nhai năm 1416; có thuyết cho rằng ông gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang vào khoảng 1420-1421; Theo truyền thuyết thì Trần Nguyên Hãn cùng Nguyễn Trãi đã vào ra mắt Lê Lợi từ rất sớm nhưng rồi lại ra đi sau đó mới trở lại. Có một điều chắc chắn là khi gặp Lê Lợi ông đã dâng cuốn “Bình Ngô sách”. Văn bản cụ thể của “Bình Ngô sách” nay không còn; Nhưng theo bình luận của các sử sách thì “Bình Ngô sách ít nói đến việc đánh thành nhưng lại bàn rất kỹ về cách “đánh vào lòng người” (mưu phạt tâm công) để cuối cùng giành lại độc lập cho dân tộc.Nếu vậy thì “Bình Ngô sách” quả là một đóng góp mới mẻ và độc đáo vào kho tàng mưu kế đánh giặc của ông cha ta.
               Nhờ có “Bình Ngô sách” mà Lê Lợi đã trao cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phụng đại phu, Hàn lâm thừa chỉ và luôn giữ ông bên cạnh để cùng bàn mưu tính kế đánh giặc.Trong suốt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã đóng vai trò là người quân sư  số 1 của Lê Lợi. Năm 1426, khi quân ta bao vây thành Đông Quan, Nguyễn Trãi được giao chức Thượng thư bộ Lại kiêm Hành khu mật viện sự. Tháng 10 năm 1427 đạo quân cứu viện của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị quân Lam Sơn đánh bại. Vương Thông trong tình trạng thế cùng lực kiệt đã sai người đưa thư đến bản doanh của Lê Lợi (lúc đó đóng ở Bồ Đề, thuộc xã Phú Viên, Gia Lâm ngày nay) xin giảng hòa. Các tướng thì khuyên Lê Lợi nên tiếp tục đánh lấy thành, nhưng Nguyễn Trãi do nắm được tình thế bên trong của địch, đã khuyên Lê Lợi tìm cách dụ hàng. Kết quả đúng như phân tích của Nguyễn Trãi, Vương Thông giảng hòa và kéo quân về nước.
               Khi cuộc kháng chiến toàn thắng, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Lê, đặt tên nước là Đại Việt, Nguyễn Trãi lại được giao việc thay mặt nhà vua viết “Bình Ngô đại cáo” tuyên bố hùng hồn về nền hòa bình và độc lập của dân tộc vừa mới giành được. Ông được ban Quốc tính, tước Quan phục hầu và chức Nhập nội hành khiển kiêm Lại bộ thượng thư. Nhưng trong hòa bình nội bộ triều đình nhà Lê lại nảy sinh những mâu thuẫn. Cuộc tranh giành quyền lực ngày càng gay gắt phức tạp, dẫn đến nhiều khai quốc công thần trở thành nạn nhân. Năm 1429, Lê Lợi cho bắt Trần Nguyên Hãn khiến ông phải tự tử. Cùng năm, lại cho giết và tịch biên gia sản của Phạm Văn Xảo, cũng là một đệ nhất công thần như Trần Nguyên Hãn. Bản thân Nguyễn Trãi cũng từng bị hạ ngục nhưng sau đó lại được tha.
               Sau khi Lê Thái Tổ mất (1432), ông ít được tin dùng. Tuy được giao làm phụ chính chuyên việc dạy dỗ cho ông vua trẻ Lê Thái Tông (tức Lê Nguyên Long), nhưng trong tình hình nội bộ phức tạp ông thường bị cuốn vào những cuộc tranh chấp giữa các phe phái. Đó cũng chính là cái mầm hậu họa cho ông sau này.
               Khoảng cuối năm 1437 hoặc đầu năm 1438 ông xin về hưu trí ở Côn Sơn. Nhưng đến năm 1439, vua Lê Thái Tông lại xuống chiếu vời ông ra giữ nguyên chức cũ kiêmTrung thư sảnh tri tam quán sự, lại kiêm coi việc quân, việc dân ở hai đạo Đông Bắc. Ông được vua cho ở Côn Sơn làm việc, thỉnh thoảng mới về triều. Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442) ông chủ trì kỳ thi Tiến sĩ và lấy Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên.
               Nguyễn Trãi đang ngày càng được vua Lê Thái Tông tin dùng thì vụ án Lệ chi viên đột ngột xẩy ra, kết thúc một cách bi thảm cuộc đời ông. Nguyên do của vụ án như sau: Nguyên vương phi Nguyễn Thị Anh sinh ra Bang Cơ (sau này là vua Lê Nhân Tông 1443-1459) đã được vua Thái Tông phong làm Thái tử. Lúc đó lại nghe nói một bà vương phi khác là bà Ngô Thị Ngọc Giao được Ngọc hoàng  thượng đế sai một vị tiên đồng xuống đầu thai. Sợ sau này con bà Ngô Thị Ngọc Giao có thể tranh đoạt mất ngôi Thái tử của con mình, nên bà Nguyễn Thị Anh đã tìm nhiều cách buộc tội bà Ngọc Giao để giết đi. Biết việc này, Nguyễn Trãi đã khuyên người vợ thiếp của mình là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ khuyên vua Lê Thái Tông không làm theo những lời xúc xiểm ấy. Vua Lê Thái Tông đã nghe theo, cho bà Ngô Thị Ngọc Giao dấu ra chùa Huy Văn và sinh con ở đây. Thấy ở Kinh đô khó che được tai mắt của bà Nguyễn Thị Anh, Nguyễn Trãi đã đưa mẹ con bà Ngọc Giao ra lánh ngoài An Bang (Quảng Ninh ngày nay). Nhờ thế mà mẹ con bà Ngọc Giao và Hoàng tử Lê Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này) đã được bảo vệ an toàn.
               Việc làm này của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là một đóng góp vô cùng lớn lao cho lịch sử, nhưng đối với quyền lợi ích kỷ của phe phái Nguyễn Thị Anh lại là một tội lỗi không thể tha thứ. Trong tình hình ấy cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ chi viên đã tạo ra một cơ hội cho bọn chúng vu cho ông tội sai Nguyễn Thị Lộ tiến độc cho nhà vua. Bằng cực hình ép cung cuối cùng Nguyễn Thị Lộ đã phải nhận liều. Nguyễn Trãi bị ghép vào mức án cao nhất “Tru di tam tộc”và chỉ sau có 12 ngày kể từ khi vua Lê Thái Tông mất bản án đã được vội vã thi hành. Đó là vào ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), toàn bộ vợ con, anh em của Nguyễn Trãi,  cả thảy 18 người đã bị chém đầu. Đây là một vụ án bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam và cũng ít gặp trong lịch sử loài người.Sau vụ án chỉ may mắn còn xót lại một người vợ ba của ông đang có mang, khi có lệnh truy nã bà được một người học trũ cũ của Nguyễn Trãi đưa đi trốn thoát. Người ấy là bà Phạm Thị Mẫn. Sau này bà Mẫn sinh được một người con trai, lúc đầu lấy họ mẹ là Phạm Anh Vũ, đến khi Nguyễn Trãi được minh oan và phục chức mới đổi lại là Nguyễn Anh Vũ.
                   Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia(Internet) dẫn theo gia phả họ Nguyễn thì Nguyễn Trãi có năm vợ: bà họ Trần sinh được Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù; bà họ Phùng sinh được Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích; bà Nguyễn Thị Lộ không có con; bà Phạm Thị Mẫn sinh được Nguyễn Anh Vũ(sau vụ án Lệ Chi Viên); bà họ Lê sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất- Kinh Môn, Hải Dương.
               Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngãi, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là: Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh; Nguyễn Phù, con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi sang họ Bế Nguyễn; bà họ Lê, vợ thứ  năm của Nguyễn Trãi, chạy về Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương.
              Bà Phạm Thị Mẫn, vợ thứ tư của Nguyễn Trãi, có mang ba tháng, được người học trò cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man(phía Tây Thanh Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.
               Mãi 22 năm sau, năm Quang Thuận thứ 5 (1464) vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, truy phong chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, tước Tán trù bá, cho Nguyễn Anh Vũ làm chức Tri huyện, lại cấp cho một trăm mẫu ruộng dùng vào việc thờ cúng. Năm năm sau, năm 1469, Lê Thánh Tông lại xuống chiếu sai Trần Khắc Kiệm tìm lại các tác phẩm của Nguyễn Trãi, vốn bị cấm tàng trữ từ khi ông bị tru di. Nhưng những bản của Trần Khắc Kiệm cũng thất lạc. Mãi đến thời Nguyễn, một người làng Nhị Khê là Dương Bá Cung đã đi khắp nam bắc dò hỏi sưu tầm lại các tác phẩm của Nguyễn Trãi và cho in trong Phúc Khê tàng bản vào năm 1868.
              Tác phẩm của Nguyễn Trãi nay hiện còn: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo,Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đạo bi, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập ngoài ra còn có: Ngọc đường di cảo, Luật thư, Giao tự đại lễ, Thạch Khánh đồ xem như mất hẳn.
               Nguyễn Trãi được tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc- Danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm sinh của ông. Sau đây mời các bạn đọc một số rất ít bài văn bài thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông có liên quan đến vùng đất Chí linh
 
Th­ư dụ hàng thành Bình Than 1

       Th­ư gửi ông chỉ huy sứ vệ Trấn Di họ An và các quan ở trong thành. 

      Ta nghe: Đức trời hiếu sinh, sức thần bất sát. Cất quân nhân nghĩa cốt ở yên dân. Ai theo lẽ ấy thì gặp mọi điều phúc, làm trái lẽ ấy thì vấp mọi tai ương. Bởi thế Đặng Vũ không giết càn, Tào Bân 2 giả cách ốm, so với việc Bạch Khởi 3 , Lý Quảng 4 thả ý giết hàng, tấm gư­ơng về sự báo ứng thiện ác còn thấy rành rành ra đó. Ta từ khi dấy nghĩa đến giờ, đối với những điều thuận đức, trái đức cố nhiên phải xử lý theo lẽ phải, như­ng khi lựa chọn giữa nghiệt hay khoan, tha cho hay lấy lại, ta chư­a bao giờ không thể theo đức hiếu sinh của trời đất và cái tâm thà bỏ sót còn hơn giết lầm ngư­ời vô tội 5 của thánh nhân.

            Nay các ông với không đầy một nghìn quân cố giữ lấy một thành trơ trọi, ròng rã tháng năm chẳng thông tin tức. Ngày thành mất chẳng sớm thì chiều. Sở dĩ ta còn trì hoãn chư­a vội đánh ngay là có ý để bọn các ông nhận rõ sự thể, xét lẽ thịnh suy, hoặc may trời nhủ bảo trong lòng, chuyển họa thành phúc để bảo toàn tính mệnh của cả một thành. Cái lẽ họa phúc đã ngay trư­ớc mắt, cơ thuận nghịch không thể làm ngơ. Như­ ở các thành Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn Châu, Nghệ An, Tiền Vệ, Tam Giang, Thị Kiều, Đô đốc Thái cùng hai quan Đô ty họ Chu, họ Tiết, Bố chánh họ Kim, Án sát họTr­ương cùng là quan chỉ huy, Thiên hộ các thành, và các quan phủ, huyện đều đã hiểu ra thời thế mà ứng biến, cùng ta hòa giải để bảo toàn mạng sống cho dân chúng các thành. Khi họ ra khỏi thành, tịnh không ai bị xâm phạm mảy may, ng­ười nhà và vợ con đều đư­ợc yên ổn vui vẻ. Thế thì cái lẽ trời cao ban phúc cho ngư­ời thiện há có sai đâu! Còn cái thành­ Xương Giang tự cho là thành cao hào sâu, không biết lư­ợng sức, dám lấy càng bọ ngựa mà chống lại cỗ xe. Ta vì luôn nghĩ đến nhân dân trong thành vô tội mà phải chết, nên mới không ngại phiền phức mà gửi th­ư đến, bảo cho cái lẽ họa phúc. Lại bảo Đô đốc họ Thái, và các quan chỉ huy tam ty, phủ, huyện đến cả d­ưới chân thành, hai ba lần hiểu dụ, mà bọn ấy vẫn mê muội cố chấp, tăm tối không biết sợ chết. Ta bất đắc dĩ mới điều tiếp cánh quân phụ lập tức tiến đánh. Vào giờ ngọ ngày mồng 8 tháng này, trống trận vừa mới nổi lên, thành liền bị tan vỡ. Đó chính bởi lỗi lầm của bọn chỉ huy Lý Nhiệm 6 để đến nỗi ng­ười trong cả một thành hóa ra máu chảy, há chẳng đáng đau xót lắm ru? Bọn các ông hãy xét xem, Thái Công thuận lẽ thì đ­ược h­ưởng phúc, mà bọn Lý Nhiệm trái lẽ thì bị mắc họa, ai được ai mất, ngư­ời có tri thức hẳn nhận ra đ­ược ngay. Nếu còn cậy thành cao, hào sâu, không lấy việc xe trư­ớc đã đổ làm răn, thì ta e rằng thành trì của các ông không phải là nơi hiểm trở trời bày đặt ra mà không thể v­ượt qua đ­ược. Vả lại, lòng ng­ười quân tử nhân đức đâu nỡ để cho một ai không đ­ược yên chốn, huống chi là ngư­ời của cả một thành gan óc bị lầy đất mà không xót xa trong lòng hay sao? Ta sở dĩ cứ tha thiết đem việc ấy khuyên dụ các ông chẳng qua là muốn thể theo đức hiếu sinh của thư­ợng đế mà giữ toàn vẹn sự sống còn của nhân dân trong thành các ông mà thôi. Bọn các ông hãy nghĩ cho kỹ, chớ để hối về sau.

            Th­ư nói không hết.

                                                    Phan Duy Tiếp dịch

                          Bùi  Văn Nguyên hiệu chính

Chú thích:

               1.Thành Bình Than: ở đất Chí Linh, nay thuộc Hải Dư­ơng, nên còn gọi là thành Chí Linh. Một bản chép tay chú: “Tức là Vệ Trấn Di”.Có lẽ gọi theo tên viên quan đứng đầu chăng?
               2.Tào Bân (931-999): tự Quốc Hoa, ng­ười Chân Định (nay thuộc Hà Bắc Trung Quốc), từng giữ chức Thừa chỉ khu mật viện đời Tống. Năm Khai Bảo thứ 7(974) theo Tống Thái Tổ đi đánh dẹp phư­ơng nam, bắc cầu phao vây hãm Kim Lăng, đại phá thành, bắt sống Hậu chúa Lý Dực, nh­ưng không tàn sát hàng binh.
               3.Bạch Khởi: thư­ợng tư­ớng quân nư­ớc Tần thời Chiến Quốc. Năm thứ 47 đời Tần Chiêu Vư­ơng(260 TCN),đánh nhau với quân Triệu ở Trư­ờng Bình(nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc),Khởi lập mư­u đặt phục binh cắt đứt đư­ờng rút lui và vân chuyển lư­ơng thực của quân Triệu. Quân Triệu bị vây hãm, tuyệt lư­ơng thực trong 46 ngày, cuối cùng phải kéo hơn 40 vạn quân trong thành ra hàng Tần. Bạch Khởi sợ giữ hàng binh của Triệu lại sẽ sinh hậu họa, bèn chỉ chọn lấy 240 trẻ con thả về cho Triệu, còn lại đào hố chôn sống hết.
               4.Lý Quảng: ngư­ời Thành Kỷ, Lũng Tây(nay thuộc tỉnh Cam Túc), đời Hán, chức Kỵ lang uý, giỏi nghề cung kiếm, thời vua Văn Đế, Vũ Đế nhiều lần lập công đánh thắng giặc Hung Nô. Hung Nô rất sợ hãi, gọi Quảng là “Phi tư­ớng quân”.
               5.Còn hơn giết lầm ng­ười vô tội; lấy ý từ câu “Dữ kỳ bất sát cô, ninh thất bất kinh”, nghĩa là: thà làm trái với phép tắc thông thư­ờng còn hơn là giết lầm người vô tội.
               6.Lý Nhiệm: ng­ười Vĩnh Khang(Trung Quốc), từng theo Minh Thành Tổ khởi binh, giữ chức Yên Sơn vệ Chỉ huy thiên sự, đư­ợc thăng Đô chỉ huy thiêm sự. Năm Tuyên Đức nguyên niên(1426) đư­ợc sai sang An Nam giữ thành Xư­ơng Giang. Ngày 8 tháng 9 năm sau(1427) thành thất thủ sau mấy tháng bị vây hãm. Lý Nhiệm phải tự sát.
                                   
Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh 1
 
            Băng Hồ tướng công là thân tộc nhà Trần. Cha là Nhập nội thái bảo, Uy túc công, húy Văn Bích, giúp triều Minh Tông thành nghiệp thái bình. Tổ là Văn túc vương húy là Đạo Tái, mười bốn tuổi thi đậu bảng nhãn triều Thánh Tông đặc ân ban cho Văn phục 3để tỏ ý yêu quý đặc biệt, khen là có tài Quản, Cát 4, có ý muốn dùng vào việc lớn; chưa kịp lên làm tướng, vương đã mất sớm.Tằng tổ là thượng tướng thái sư Chiêu Minh đại vương, húy là Quang Khải, con thứ của Thái Tông, đời Trùng Hưng 5 công to bậc nhất. Từng xuất chinh. Thánh Tông tặng hai cái cờ, bút ngự đề rằng:
                                    Nhất đại công danh thiên hạ hữu

                             Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô

                                    (Một thời công danh, thiên hạ có
                                    Hai triều trung hiếu, thế gian không) 6
            Công húy là Nguyên Đán, nếp nhà thi lễ, nòi giống thần minh, trăng trong gió mát, có nhã thú xa lánh cõi trần; ngày trắng tuổi xanh, có hoài bão một lòng vì nước. Xưa trong buổi Hôn Đức 7 bội loạn, đi theo hai vua Nghệ Tông và Duệ Tông chạy ra ngoài, đến khi dẹp yên được lập làm tướng.Giữ vững cơn lay động, gỡ mối sau buổi rối ren, trong khoảng mấy năm, trong nước yên lặng, người ta khen là hiền tướng. Dù là trẻ con, lính tráng, chẳng ai là không biết tiếng.
            Từ khi họ Hồ được tiến dụng, giá ngầm bắt đầu đông.Công nói: “Người quân tử thấy cơ thì làm, không chờ đến cuối ngày”.Bấy giờ bèn dựng động Thanh Hư ở núi Côn Sơn, huyện Phượng Sơn để làm chỗ lui nghỉ. Động làm xong, Duệ Tông tặng ba chữ ngự bút lớn “Thanh Hư động”, nêu ở mặt bia. Nghệ Tông tự chế bài minh bia khắc vào lưng bia.
            Công tuy thân gửi suối rừng, mà chí thì ở tông xã 8 ,tấm lòng ưu ái chưa từng một ngày quên 9. Hoặc đi hoặc ở, khi động khi tĩnh, đều là có ý can gián. Rút cục Nghệ Tông đều không xét đến. Do đó, họ Hồ uy thế càng thịnh, kẻ xu phụ ngày càng nhiều, thế nước ngày càng suy, không làm sao được nữa, cái chí lui về hưu của công mới quyết.
            Đến cuối cùng ốm mà không uống thuốc, con cháu có người khuyên thì công nói: “Thời sự như thế, ta được chết là may rồi, sao còn cầu sống để thấy họa loạn? ” Công mất chưa được bao lâu, thì họ Hồ quả cướp nước, giết hại con cháu họ Trần không sót. Cái Trí sáng suốt thấy trước của công như thế đó. Thọ sáu mươi nhăm tuổi, Năm Canh Tý,10 tháng 11 ngày 14 ,mất ở nhà, táng ở núi Tam Giáp huyện Phượng Sơn.
            Mẹ ta là con gái thứ ba của Công, mất trước Công.Ta trộm cảm việc Bành Trạch Đào công 11 làm truyện của ngoại tổ Mạnh phủ quân, My Sơn Tô công 12 chép chuyện cũ của Trình công, Hối Am Văn công 13 chép chuyện của Chúc công, cái lòng bi thương về suối lạnh trong thơ Khải Phong 14 thực đã đúc ở lòng ta 15. Cũng định dựng lại nhà ở dưới núi Côn Sơn để tứ thời cúng tế, mà chí chưa được thỏa. Nhân mượn thợ vẽ tranh, góp chuyện cũ chép ở sau, cất ở nhà để tỏ ý không quên, ngõ hầu cũng được gần với tấm lòng của Đào công, Tô công và Văn công vậy. Ngoài ra thì xem Thanh Hư động ký  của Nhị Khê tiên sinh 16 soạn cùng các sách khác.
                      Thuận Thiên năm đầu17,Mậu Thân tháng trọng đông18
                      Tuyên phụng đại phu Nhập nội hành khiển môn hạ
                      hữu gián nghị đại phu đồng trung thư lệnh sự tứ kinh tử
                      ngư đại thượng hộ quốc Quan phục hầu, tứ tính Lê Trãi
                                                                                   Văn Tân dịch
Chú thích:
            1.Băng Hồ: tên hiệu của Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi.
            2.Bảng Nhãn: bậc đỗ thứ hai kỳ thi đình, sau trạng nguyên.
            3.Văn phục: áo quần của quan văn.
            4.Quản, Cát: Quản, tức Quản Trọng, người giúp Tề Hoàn Công(Trung Quốc) dựng lên nghiệp bá. Cát, tức Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục(thời Tam Quốc).
            5.Trùng Hưng: niên hiệu của Trần Nhân Tông.Thời Nhân Tông có hai niên hiệu là: Thiệu Bảo(1279-1284) và Trùng Hưng(1285-1293).
            6.Sau hai câu này nguyên bản còn một đoạn dịch giả không dịch: Đủ thấy vương( tức Đạo Tái, ông nội của Nguyên Đán) là một bậc phi thường.Thọ 50 tuổi. Có Lạc Đạo tập truyền ở đời.
            7.Hôn Đức: chỉ Dương Nhật Lễ, người con nuôi của Cung túc vương, được bà Hoàng thái hậu đưa lên làm vua(1369-1370) thay Dụ Tông mất vì Dụ Tông không có con. Nhật Lễ muốn đổi lại họ Dương để dứt ngôi nhà Trần, bị các quan tôn thất nhà Trần đem quân về bắt rồi giết đi. Sau đó lập Trần Phủ lên ngôi(tức vua Trần Nghệ Tông).
            8.Tông xã: tức tông miếu và xã tắc, đây chỉ công việc triều đình.
            9.Tiếp câu này nguyên bản còn một câu dịch giả không dịch, câu ấy là: Thường mượn thi ca gửi niềm trung phẫn.
            10.Năm Canh Tý: tức là năm 1390.
            11.Bành Trạch Đào công: tức Đào Tiềm, nhà thơ đời Tấn, từng làm quan lệnh ở Bành Trạch.
            12.My Sơn Tô công: tức Tô Thức, hiệu là Đông Pha cư sĩ (nên thường gọi là Tô Đông Pha), quê ở My Sơn.
            13.Hối Am Văn công: tức Chu Hy, Thạc nho đời Tống, hiệu là Hối Am, được ban thụy là Văn.
            14.Thiên Khải Phong: thuộc Bội Phong trong Kinh Thi là lời người con gái tự trách thờ mẹ, trong đó có câu: “nơi đó có dòng suối lạnh” chứa đựng tấm lòng thương nhớ mẹ của người con.
            15.Sau chữ “thực đã đúc ở lòng ta”, nguyên bản còn có một câu nữa, nghĩa là: “Huống chi con cháu của công hầu như không còn ai, di nghiệp ký thác, thật ở ta”.
           16.Nhị Khê tiên sinh: tức Nguyễn Phi Khanh, con rể của Trần Nguên Đán, thân phụ của Nguyễn Trãi.
            17.Thuận Thiên năm đầu: tức năm đầu của Lê Thái Tổ, nhằm năm Mậu Thân (1428)
            18.Tháng trọng đông: tức tháng 11 âm lịch.

Một số bài thơ

崑山歌
崑山有泉,
其聲冷冷然,
吾以為琴弦。
崑山有石,
雨洗苔鋪碧,
吾以為簞席。
岩中有松,
萬里翠童童,
吾於是乎偃息其中。
林中有竹,
千畝印寒綠,
吾於是乎吟嘯其側。
問君何不歸去來,
半生塵土長膠梏。
萬鐘九鼎何必然,
飲水飯蔬隨分足。
君不見:董卓黃金盈一塢,
元載胡椒八百斛。
又不見:伯夷與叔齊,
首陽餓死不食粟?
賢愚兩者不相侔,
亦各自求其所欲。
人生百歲內,
畢竟同草木。
歡悲憂樂迭往來,
一榮一謝還相續。
丘山華屋亦偶然,
死後誰榮更誰辱。
人間箬有巢由徒,
勸渠聽我山中曲。
Phiên âm
                            Côn Sơn ca
                        Côn Sơn hữu tuyền,
                        Kỳ thanh linh linh nhiên,
                        Ngô dĩ vi cầm huyền.
                        Côn Sơn hữu thạch,
                        Vũ tẩy đài phô bích,
                        Ngô dĩ vi đạm tịch.
                        Nham trung hữu tùng,
                        Vạn cái thúy đồng đồng,
                        Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
                        Lâm trung hữu trúc,
                        Thiên mẫu ấn hàn lục,
                        Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kỳ trắc.
                        Vấn quân hà bất quy khứ lai
                        Bán sinh trần thổ trường giao cốc?
                        Vạn chung cửu đỉnh 1 hà tất nhiên,
                        Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
                        Quân bất kiến Đổng Trác 2 hoàng kim doanh nhất ổ?
                        Nguyên Tải 3 hồ tiêu bát bách hộc?
                        Hữu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề, 4
                        Thú Dương ngạ tử bất thực túc?
                        Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
                        Diệc các tự cầu kỳ sở dục.
                        Nhân sinh bách tuế nội,
                        Tất cánh đồng thảo mộc.
                        Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
                        Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
                        Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,5
                        Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục?
                        Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ, 6
                        Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
 
            Dịch nghĩa:
                                    Bài ca Côn Sơn
                        Côn Sơn có suối      
                        Tiếng nước chảy róc rách,
                        Ta lấy làm đàn cầm.
                        Côn Sơn có đá.
                        Mưa rửa rêu phô biếc,
                        Ta lấy làm đệm chiếu.
                        Trong nuí có thông,
                        Muôn chiếc lọng biếc um tùm,
                        Ta nằm nghỉ ngơi ở trong đó.
                        Trong rừng có trúc,
                        Nghìn mẫu in màu xanh mát lạnh,
                        Ta ngâm nga ở bên cạnh.
                        Hỏi người sao chẳng về đi,
                        Nửa đời người còn trói buộc mãi trong đám cát bụi làm gì?
                        Muôn chung chín đỉnh có cần chi,
                        Uống nước lã ăn cơm rau tùy phận mình cũng đủ.
                        Người chẳng thấy Đổng Trác vàng chất đầy một ụ,
                        Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc?
                        Lại chẳng thấy Bá Di cùng Thúc Tề,
                        Chết đói ở núi Thú Dương không chịu ăn thóc?
                        Hiền ngu hai đàng không sánh nhau,
                        Cũng đều tự tìm cái thích của mình.
                        Người đời trong trăm năm,
                        Rốt cuộc rồi cũng nát với cỏ cây.
                        Vui buồn lo sướng đổi thay nhau,
                        Một tươi một héo vẫn nối nhau.
                        Ở nơi núi gò hay ở nhà cửa đẹp đẽ cũng là ngẫu nhiên,
                        Chết rồi còn ai vinh ai nhục?
                        Trên đời nếu có hạng Sào Phủ, Hứa Do  ,
                        Xin khuyên các người hãy nghe ta hát khúc ca trong núi.
 
Dịch thơ:
                                    Bản dịch thứ nhất
 
                        Côn Sơn có suối nước trong,
                        Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
                        Côn Sơn có đá tần vần,
                        Mưa trơn rêu sạch ta nằm ta chơi.
                        Côn Sơn thông tốt ngất trời,
                        Ngả nghiêng dưới bóng ta thời tự do.
                         Côn Sơn trúc mọc đầy gò,
                        Lá xanh bóng rợp tha hồ tiêu dao.
                        Sao không về phắt đi nào,
                        Đời người vướng vất xiết bao cát lầm.
                        Cơm rau nước lã an thân,
                        Muôn chung nghìn tứ có cần quyền chi.
                        Gian tà những kẻ xưa kia,
                        Trước thì họ Đổng, sau thì họ Nguyên.
                        Đổng thì mấy vực kim tiền,
                        Nguyên hồ tiêu chứa mấy nghìn muôn cân.
                        Di, Tề hai đấng thánh nhân,
                        Nằm trên núi Thú nhịn ăn đến già.
                        Nào ai khôn dại ru mà,
                        Chẳng qua chỉ tại lòng ta sở cầu.
                        Trăm năm trong cuộc bể dâu,
                        Người cùng cây cỏ khác nhau chút nào.
                        Khóc, cười, mừng, sợ xôn xao,
                        Đang tươi bỗng héo biết bao nhiêu lần.
                        Nhục vinh thân cũng là thân,
                        Cửa ngăn nhà ngói trăm năm còn gì.
                        Sào, Do hai bạn tương tri,
                        Vào xem tớ đọc cho nghe bài này.
                                                                        Nguyễn Trọng Thuật dịch
                                                                         (Báo Nam Phong số 148)
                        Bản dich thứ hai
                       
                        Côn Sơn suối chảy rì rầm,
                        Ta nghe nh­ư tiếng đàn cầm bên tai.
                        Côn Sơn có đá rêu phơi,
                        Ta ngồi trên đá nh­ư ngồi chiếu êm.
                        Trong ghềnh thông mọc nh­ư nêm,
                        Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
                        Trong rừng có bóng trúc râm,
                        Dư­ới mầu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
                        Về đi sao chẳng sớm toan,
                        Nửa đời v­ướng bụi trần hoàn làm chi.
                        Muôn chung chín vạc làm gì,
                        Cơm rau n­ước lã nên tùy phận thôi.
                        Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
                        Hồ tiêu ăm ắp,vàng m­ười chứa chan.
                        Lại kìa trên núi Thú San
                        Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
                        Hai đàng khó sánh hiền ngu,
                        Đều làm cho thỏa đ­ược nh­ư ý mình.
                        Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
                        Ng­ười nh­ư cây cỏ thân hình nát tan.
                        Hết ­ưu lạc đến bi hoan,
                        Tốt t­ươi khô héo tuần hoàn đổi thay.
                        Núi gò đài các đó đây,
                        Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
                        Sào, Do bằng có tái sinh,
                        Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.
                                      (Thơ văn Nguyễn Trãi-NXB Giáo dục-1967)
Chú thích:
               1.Vạn chung cửu đỉnh: “chung” là đồ dùng để đong thóc thời cổ; “đỉnh” là cái vạc ba chân.Vạn chung là muôn chung thóc chỉ bổng lộc của người làm quan cao tột bậc.Cửu đỉnh là chín cái vạc, tượng trưng cho chín châu của Trung Quốc. Cửu đỉnh được vua Hạ Vũ đúc và được xem là của báu truyền quốc trong các đời Hạ, Thương, Chu. Cửu đỉnh ở đây chỉ ngôi vua.
               2.Đổng Trác: người đời Hán, làm Tinh Châu mục, đem quân về kinh đô tự đặt làm thừa tướng, phế Thiếu Đế, giết Hà thái hậu, lập Hiến Đế, dâm loạn, hung bạo, tự đặt làm thái sư, có ý muốn cướp ngôi, sau bị Lã Bố làm theo kế của Vương Doãn giết chết, gia sản bị tịch thu.
               3.Nguyên Tải: người đời Đường, làm quan Trung thư thị lang đời vua Đường Đại Tông, chuyên quyền, tham nhũng, bài xích những người trung hiền, sau bị vua bắt phải tự tận.
               4.Bá Di, Thúc Tề: hai anh em con vua nước Cô Trúc đời nhà Thương(tức Ân), khi Chu Vũ Vương đem quân đi đánh vua Trụ, hai ông cho là bất trung bất nghĩa cản đường can ngăn nhưng không được. Sau Vũ Vương diệt Trụ lập nên nhà Chu, hai ông bỏ vào núi Thú Dương ở ẩn, không thèm ăn thóc nhà Chu, chỉ hái rau vi ăn, cuối cùng chết đói.            
               5.Khâu sơn hoa ốc: chữ lấy từ một câu thơ của Tào Thực “Sinh tồn hoa ốc sứ, Linh lạc quy sơn khâu”(Khi còn sống thì ở nhà đẹp, đến khi chết thì về nơi gò núi).
               6.Sào Do: tức Sào Phủ và Hứa Do, hai  bậc cao ẩn đời vua Nghiêu.
 
Ngôn chí XIV
               Vừa sáu m­ơi d­ư tám chín thu,1
               Lư­ng gầy da xỉ 2 tư­ớng lù khù.
               Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào-Hứa,3
               Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng-Chu.4
               Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc,
               Gian lều cỏ đội đức Đ­ường Ngu.5
               Tơ hào chẳng có đền ơn chúa,
               Dạy láng giềng mấy sĩ nho.
 
Chú thích:
               1.Câu “vừa sáu mươi dư tám chín thu: Đào Duy Anh giải thích là: “nếu làm tròn sáu mươi thì dư ra tám chín năm, có nghĩa là khoảng 51 hay 52 tuổi. Tính ra lúc đó là những năm 1429 hay 1430 trùng hợp với những năm mà Nguyễn Trãi bị nghi oan phải “Náu về quê cũ”(Chữ của Nguyễn Trãi trong bài thơ Mạn Thuật XI)
               2.Lưng gầy da xỉ: có bản phiên “lưng cày da xẻ”(lưng thợ cày,da thợ xẻ), nhưng đều nói dáng vẻ và nước da xấu xí của người già.
               3. Sào-Hứa: tức Sào Phủ và Hứa Do là những người tiêu biểu cho sự cao khiết. Tích xưa kể rằng: Sào phủ được vua Nghiêu tỏ ý nhường ngôi cho, ông đã từ chối không nhận và còn cho lời nói của vua Nghiêu làm bẩn tai mình nên xuống sông rửa tai. Vừa lúc ấy lại gặp Hứa Do cho trâu xuống sông uống nước, nhưng biết lý do Sào Phủ rửa tai cũng vội dắt trâu lên đoạn trên khúc sông mới cho trâu uống nước vì sợ bẩn mồm trâu.
               4.Khổng-Chu: có người cho là Khổng Tử và Chu Đôn Di, cũng có người cho là Chu Công Đán và Khổng tử, nhưng đều có ý chung là những nhân vật tiêu biểu và đại diện cho Nho giáo.
               5.Đường-Ngu: tức hai thời của vua Nghiêu và vua Thuấn.

Còn tiếp kì 3 ...

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bài viết được xem nhiều
CÔN SƠN - KIẾP BẠC:
HÀNH TRÌNH DI SẢN

qh
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây