Trần Quốc Chẩn nguyên là em vua Trần Anh Tông (1293 – 1314). Vào năm Hưng Long thứ nhất (1293) ông được phong Huệ Võ đại vương. Năm Hưng Long thứ 10 (1302) lại được phong Nhập nội Bình Chương.
Năm Hưng Long thứ 20 (1312) biên giới phía nam Đại Việt bị quân Chiêm Thành lấn chiếm. Nhận lệnh của triều đình, Trần Quốc Chẩn đã cầm quân lên đường đánh dẹp, trận này ông phối hợp với tướng quân Đoàn Nhữ Hài bao vây, bức hàng quân Chiêm Thành thắng lợi, quân Trần không tốn một mũi tên nào. Đến năm Đại Khánh thứ 5 (1318), Trần Quốc Chẩn cùng tướng quân Phạm Ngũ Lão tiếp tục đi đánh dẹp quân Chiêm thành thu được thắng lợi lớn, giữ yên bờ cõi quốc gia.
Do có nhiều công lao với triều đình, năm Khai Thái thứ nhất (1324), Trần Quốc Chẩn được vua Trần phong chức: Nhập nội Quốc phụ Thượng tể – chức quan đầu triều coi giữ lục bộ Thượng Thư.
Sử cũ còn ghi nhận Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục. Ông là người được vua Trần Anh tông rất quý. Về sauvua Minh Tông lại lấy con gái của Quốc Chẩn nên càng tin dùng. (Con gái của Quốc Chẩn là Hoàng Hậu Lệ Thánh)
Minh Tông giữ ngôi đợc 15 năm ( từ năm 1314 đến năm 1329) tuổi đã cao mà chưa lập đợc Thái Tử. Quốc Chẩn có ý đợi Hoàng Hậu Lệ Thánh sinh con trai thì mới lập. Lợi dụng hoàn cảnh éo le đó, Cương Đông Văn Hiến Hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Trần Nhật Duật muốn đánh đổ Hoàng Hậu để lập Thái tử Vượng (sau là Trần Hiến Tông) mới đem của đút cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Nhạc 100 lạng vàng bảo Trần Nhạc vu cáo cho Quốc Chẩn có âm mưu làm phản. Vua cả tin cho là thật liền ra lệnh bắt giam ngay Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc ở kinh sư rồi đem việc ấy hỏi Thiếu Bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh với Văn Hiến Hầu, lại cùng với mẹ thái tử Vượng, đều là người Giáp Sơn (Kinh Môn) và đã từng làm thầy dậy thái tử Vượng, liền trả lời:
“Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó”. Vua truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Hoàng hậu Lệ Thánh khi vào thăm cha đã lấy áo nhúng nước mặc vào người rồi vắt ra cho cha uống. Trong khi đó Lê Thị mẹ Thái tử Vượng muốn cho Trần Quốc Chẩn chết sớm để con mình được lập làm thái tử, liền cho người mang nước tẩm độc cho Quốc Chẩn uống, uống xong thì chết. Quốc Chẩn chết oan, linh hồn ông biến thành con ong vàng.
Vài năm sau, vợ lẽ của Trần Nhạc ghen với vợ cả, tố cáo sự thật, đem việc Văn Hiến Hầu đút vàng tâu lên vua. Việc giao xuống ngục quan xét, Lê Duy là người cương trực đem xét hỏi ngay ngày hôm ấy. Tên Nhạc bị tội “lăng trì”, Văn Hiến bị giáng xuống làm thứ dân, xoá tên trong sổ tôn thất của triều đình.
Đến năm Giáp Thân (1341), thời Trần Dụ Tôn, vụ án Trần Quốc Chẩn được minh oan hoàn toàn. Triều đình phục chức: Nhập nội Quốc Phụ Thượng Tể cho Trần Quốc Chẩn, trả lại phẩm giá cho người đã khuất. Đây là bài học đau xót nhất trong 175 (1226 – 1400) thịnh trị của nhà Trần và cũng là bài học quý giá cho các thời đại sau về đào tạo, sử dụng ngời hiền tài.
b. Đền Quốc Phụ:
Ghi nhận công lao của Trần Quốc Chẩn, triều đình đã giao cho bản xã sửa lại ngôi nhà cũ ở quê ông tại Kiệt Đặc, Chí Linh làm đền thờ. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều sắc phong cho Trần Quốc Chẩn và cho phép địa phương theo trước phụng thờ, tôn vinh người có công với đất nước.
Tương truyền đền thờ rất linh ứng, sách nhân vật lịch sử tỉnh Hải Dương còn ghi lại: “Năm Đinh Dậu (1357), Thượng hoàng Minh Tông ốm nặng,...Nguyên do Thượng hoàng bị bệnh từ hôm ngự giá đến miền Kiệt Đặc tại Chí Linh, viếng đền thờ Quốc phụ Huệ Võ Đại Vương, khi ra khỏi đền bị con ong vàng đốt vào má. Từ đó sinh ra ốm lơ lửng mãi không khỏi. Trong tâm trí Minh Tông vẫn không xua nổi vụ án Quốc Chẩn bị hàm oan...
“Vua Minh Tông mệt nặng, Dụ Tông cho thái y sắc thuốc nhưng Thượng hoàng không uống! Nửa đêm thượng hoàng kêu to:
- Quốc Phụ thượng tể đấy phải không? Ngươi đến đón ta ?
Ngài Ngự lại thấy một con ong vàng bay quáng quàng trong quầng hoa cải hoa cà ở hai hố mắt.
Mùa xuân, ngày 19, tháng 2 năm Đinh Dậu (1357) thì ngài mất.”
Đến nay nhân dân cầu đảo thường linh ứng.
Đền Quốc Phụ được trùng tu tôn tạo nhiều lần vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 – 18) và thời Nguyễn (thế kỷ 19).
Di tích kiến trúc kiểu chữ
Nhị, gồm 5 gian tiền tế và 3 gian Hậu cung xây bít dốc quai chảo. Đền xưa có hai cây đa, một cây đề cổ thụ và con đường “cái quan” ghép đá hộc do nhà nước phong kiến đầu tư để tổ chức tế lễ Quốc Chẩn hàng năm thêm thuận lợi.
Di tích được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng lúa chạy dài theo hướng Bắc – Nam. Theo thuyết “phong thuỷ” đền Quốc Phụ có “Kim Xà” (Rắn Vàng), phía trước có đường ra bến đá ven sông Kinh Thầy. Bên trái là cánh đồng Lạng Trì và Ao Vả, tục truyền đây là nơi tắm gội của Trần Quốc Chẩn. Bên phải có cánh đồng Giải Phướn, tại đây có di tích Đống Đỏ, có nhiều đống son tự nhiên. Phía sau có cánh đồng Đống Lăng.
Năm 1951, giặc Pháp từ bốt Trung Hà (Nam Hưng – Nam Sách) đã nã pháo vào khu đền chính hòng tiêu diệt cơ sở bí mật kháng chiến của ta làm nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, chỉ còn lại một phần Hậu cung và một số đồ thờ được nhân dân cất giấu từ năm trước. Năm 1953 di tích bị sụp đổ hoàn toàn.
Đến năm 1958, nhân dân địa phương tiếp tục vận động công đức xây lại Hậu cung trên nền móng cũ để ổn định việc sinh hoạt tín ngưỡng, tiếp tục tôn vinh người có công với đất nước.
Năm 1997 – 1998, thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ và nhân dân, được sự nhất trí của các cấp và các ngành chức năng, UBND xã đã tổ chức phát động công đức, huy động mọi nguồn lực tại địa phương khôi phục lại đền Quốc Phụ. Công trình đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn không quá 60 ngày đêm. Sự đồng tâm nhất trí, quyết tâm của toàn thể Đảng bộ và nhân dân xã Chí Minh đã làm “hồi sinh” di tích “
Thượng Tể cổ trạch” (Nhà cũ của Thượng Tể).
Căn cứ vào nội dung giá trị lịch sử của di tích và danh nhân, đền Quốc Phụ đã đợc Bộ Văn hoá - Thông tin ra quyết định số 15/2003/QĐ - BVHTT ngày 14/4/2003 xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia theo quy định của Luật Di sản văn hoá. Đây là di tích thứ 127 của tỉnh Hải Dương được xếp hạng bảo vệ.
Lễ hội:
Hàng năm theo điển lệ tại đền Quốc Phụ diễn ra hai sự kiện chính:
- Lễ Đại Kỳ Phước từ ngày 5 đến 8 tháng 3
- Ngày giỗ Quốc Chẩn 12 tháng 6 âm lịch
- Lễ hội chính vào mùa xuân. Trong những ngày này nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu từ các làng về đền Quốc Phụ tế lễ Quốc Chẩn hết sức trọng thể, thu hút hàng nghìn người tham gia tạo nên không khí lễ hội tưng bừng khắp một vùng rộng lớn.