50 năm THPT Chí Linh (1966-2016): Một thời nhớ mãi

Thứ ba - 17/05/2016 21:40 - 6636 lượt xem
Anh Nguyễn Văn Quang- Thầy thuốc ưu tú, giám đốc Bệnh viện thể thao Việt Nam, cựu học sinh khóa 1970-1973.
Anh Nguyễn Văn Quang- Thầy thuốc ưu tú, giám đốc Bệnh viện thể thao Việt Nam, cựu học sinh khóa 1970-1973.
Đó là thời lứa chúng tôi, những học sinh Khóa 5 (1970 – 1973) Trường Phổ thông Cấp 3 Chí Linh cùng đất nước trải qua những mốc son quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Đó là thời chúng tôi, những cô bé, cậu bé 14, 15 tuổi rời trường cấp 2 của xã tập trung về trường huyện - ngôi trường cấp 3 duy nhất của huyện lúc đó. Bao bỡ ngỡ, bao lạ lẫm với trường mới, thầy cô mới, bạn mới và những bài học mới, chúng tôi đã từng bước trải qua tuổi hoa niên đẹp nhất của đời người.

Đó là năm học đầu tiên trường được chuyển từ thôn Đồi Thông, xã Chí Minh lên thị trấn Sao Đỏ. Từ khu nhà hiệu bộ, nhà tập thể của các thầy cô đến các lớp học đều là nhà cấp 4, nằm dưới những tán lá của rừng cây bạch đàn xanh mướt quanh năm. Nhiều ngôi nhà được đắp lên bằng đất mà không phải xây bằng gạch, các thầy cô chưa ai có nhà riêng, đều sống ở tập thể, tuổi đời các thầy cô rất trẻ, chủ yếu là 22- 25 tuổi. Khu tập thể của thầy cô thật đơn sơ nhưng trong lòng các thầy cô đầy ắp niềm vui về ngôi trường mới, về lứa học trò chúng tôi. Lòng yêu nghề, yêu trò đã giúp thầy cô vượt qua bao khó khăn mang đến cho chúng tôi những bài giảng sống động, thắp lên trong mỗi chúng tôi những ước mơ hoài bão mà sau này chúng tôi đã thực hiện. 

Đó là khóa học mà Trường Cấp 3 Chí Linh xây dựng và khánh thành ngôi nhà 2 tầng đầu tiên. Chúng tôi được tham gia lao động từ khi đào móng, lấy cát, lấy sỏi trên đồi. Sau 3 năm xây dựng, khu nhà 2 tầng to và đẹp nhất huyện lúc đó được hoàn thành. Học kỳ 2 lớp 10, chúng tôi là những học sinh đầu tiên được đặc cách lên học tại tầng 2 của ngôi nhà ấy.

Đó là thời rất khó khăn về kinh tế. Lương các thầy cô rất thấp, chỉ 40-60 đồng/ tháng; gạo chỉ có 13 kg/tháng nhưng phải ăn độn bằng hạt bo bo, bột mì, ngô hay sắn khô; phiếu mua thịt lợn mỗi tháng chỉ có 0,5 kg, muốn có 1 kg thì phải đổi bằng chân giò, xương hay mỡ lá; phiếu đường cũng chỉ có 0,5 kg/tháng; phiếu mua vải phân phối 5 mét một năm, muốn mua vải màu theo ý của mình cũng khó, hầu như ai cũng có những bộ quần áo phải bích kê ở gối, mông quần hay vai áo. Nhiều thầy cô chưa có xe đạp để đi lại.
Đó là thời gần một nửa các bạn học sinh đi học xa nhà từ 5 - 10 km phải đi bộ hay đi nhờ xe của bạn. Vở viết toàn giấy đen, thậm chí không có dòng kẻ mà cũng chẳng đủ. Mực viết lúc xanh, lúc tím. Bút máy Trường Sơn phải mài ngòi, ai có được cây bút Kim Tinh ngòi bút trơn thì thật là xa xỉ. Sách giáo khoa không bao giờ có đủ cả bộ cho mỗi người, chúng tôi phải mượn nhau để học. Học xong lớp 10 sách đã được các em lớp 9 xin hết, chuẩn bị thi đại học không có sách lại phải mượn lại để xem. Thời ấy không có khái niệm ôn thi đại học, đến ngày thi là cứ việc thi, thật là nhàn nhã so với học sinh bây giờ.

Đó là thời cả nước dồn sức cho những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Bao lớp thanh niên lên đường ra trận. Khóa chúng tôi vào lớp 8 có 4 lớp với hơn 200 bạn học sinh, lên lớp 9 còn 3 lớp, lên lớp 10 chỉ còn 2 lớp và 62 bạn. Phần lớn sĩ số lớp giảm là do các bạn đi bộ đội, 100 % nam học sinh viết đơn tình nguyện xung phong tòng quân. Nhiều bạn chích máu viết “ huyết tâm thư” được nhà trường biểu dương. Một năm có tới 3 đợt tuyển quân, hầu hết các bạn đủ 17 tuổi, nặng 40 kg và đủ sức khỏe là lên đường nhập ngũ. Những buổi tiễn bạn tòng quân bao lưu luyến. Đợt tuyển quân tổng động viên năm 1972, sân trường xanh màu áo lính. Các thầy, các bạn đều trở thành chiến sĩ, đều là lính binh nhì. Cho đến bây giờ, “Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo” vẫn mang đậm dấu khóa học 1970 - 1973 của Trường cấp 3 Chí Linh cũng như của huyện Chí Linh.

Đó là thời B52 Mỹ rải thảm bom Hà Nội khi chúng tôi đang học cuối kỳ 1 của lớp 10. Những đêm Điện Biên Phủ trên không, từ Sao Đỏ nhìn về Hà Nội đạn lửa đỏ trời. Những ngày ấy chúng tôi phải nghỉ học, sơ tán về thôn Chi Ngãi, xã Cộng Hòa và thôn Nội, xã Tân Dân. Chương trình học lớp 10 bị gián đoạn nên năm học kéo dài đến 30/7 mới thi tốt nghiệp, 15/8 thi Đại học. Năm học cuối cấp lớp 10 cũng là thời điểm Hiệp định Paris về chiến tranh Việt Nam được ký kết và có hiệu lực.

Đó là thời những ngày đêm ôn thi tốt nghiệp trong rừng bạch đàn. Chưa có điện thắp sáng, những ngọn đèn dầu lung linh trong tán lá bạch đàn và trên hành lang nhà 2 tầng thật đẹp… Những buổi phụ đạo của các thầy cô, không phụ cấp, không học phí … mà thầy cô vẫn tận tụy hết lòng, tất cả vì học sinh thân yêu.
Đó cũng là thời “ Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò”. Không có quỉ và ma, chỉ có lũ học trò nghịch ngợm chúng tôi với bao kỷ niệm không thể nào quên, với bạn bè, với các thầy cô giáo. Nhiều bạn tinh nghịch làm các thầy cô không hài lòng. Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Hải bây giờ vẫn nhắc: “Khóa học 1970 - 1973 là khóa học có nhiều dấu ấn đặc biệt của Trường”.

Đó cũng là thời chúng tôi bắt gặp trái tim mình lỗi nhịp với những rung động đầu đời. Bạn trai bạn gái bắt đầu để ý đến nhau. Thời đó thích nhau mà nói trực tiếp thật là khó, thật là tiểu thuyết. Thế là những quyển sách, quyển vở được trao đi trả lại, kèm theo những lá thư tỏ tình mộc mạc, ngây ngô. Thật là thú vị khi những bức thư đó lại là sản phẩm trí tuệ chung của cả nhóm bạn trai hay nhóm bạn gái viết. Thú vị hơn là ngườì nhận thư cứ tưởng chỉ có mình được đọc những dòng ngọt ngào say đắm ấy…

Đó là thời hầu hết bạn trai nhập ngũ, kể cả các bạn thi đỗ đại học. Các bạn gái học tiếp trung cấp hoặc đại học. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, các bạn trai mới tiếp tục con đường học tập của mình.

Đó là một khóa học có nhiều bạn thành đạt trên nhiều lĩnh vực công tác của xã hội như: khoa học, chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn học nghệ thuật, y tế, giáo dục… Có 2 bạn được Chủ tịch nước tặng danh hiệu: Thầy thuốc ưu tú và nghệ sĩ ưu tú; có 3 bạn là cán bộ cấp cục, vụ, viện; 3 bạn cấp hàm đại tá, 1 bạn là Chủ tịch huyện, 1 bạn là Phó Bí thư huyện ủy, 5 bạn là trưởng ngành của huyện...nhiều bạn là doanh nhân, nông dân sản xuất giỏi. Khóa học của chúng tôi cũng có 5 bạn là anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Lớp A10 niên khóa 1999-2002 trong một lần về thăm trường

Mang dấu ấn một thời kỳ lịch sử của đất nước, 3 năm học cấp 3, dưới sự dạy dỗ của các thầy cô giáo, chúng tôi dần khôn lớn. Các thầy cô không chỉ truyền dạy cho chúng tôi những kiến thức phổ thông cơ bản mà còn là những tấm gương sáng về nhân cách. Những bài học ấy, những nhân cách ấy đã dạy chúng tôi trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội.

Nghệ sĩ Ưu tú , hoạ sĩ Hoàng Hà Tùng ( Hoàng Văn Tồn ) tặng Album tranh cho Thầy Dương, hiệu trưởng trường THPT Chí Linh

43 năm đã trôi qua từ mùa hè 1973, chúng tôi - học sinh Khóa 5 Trường Phổ thông Cấp 3 Chi Linh đã lần lượt nghỉ hưu sau những tháng năm học tập và lao động. Mỗi người một con đường số phận, nhưng tất cả chúng tôi đều mang trong ký ức của mình một thời tuổi hoa đẹp đẽ. Chúng tôi vẫn họp khoá mỗi năm một lần để thấy nhau già đi mà vẫn không thể quên thuở ban đầu học tại Trường Cấp 3 Chí Linh, để tự hào nói với nhau rằng: chúng tôi không phụ công ơn dạy dỗ của các thầy cô, đã trở thành những người có ích cho quê hương đất nước.

Và trong tim mỗi chúng tôi, ngôi trường ấy mãi là một mái ấm yêu thương!

 
Hà Nội, tháng 5- 2016.

Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Quang

Nguồn tin: www.facebook.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bài viết được xem nhiều
CÔN SƠN - KIẾP BẠC:
HÀNH TRÌNH DI SẢN

qh
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây