Diễn xướng Lễ hội quân trên sông Lục Đầu

Thứ tư - 11/09/2019 16:35 - 2501 lượt xem
Diễn xướng Lễ hội quân trên sông Lục Đầu
Đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; thời Trần thuộc hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang; thời Lê, Nguyễn thuộc trấn Kinh Bắc; nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Vạn Kiếp là đầu mối huyết mạch giao thông thuỷ, bộ trấn giữ cửa ngõ phía Đông kinh thành Thăng Long. Nơi đây, trời bày, đất dựng, vị trí đắc địa về phong thuỷ, hình thế hiểm yếu về quân sự, có tứ linh quần tụ, chung đúc khí thiêng, địa linh nhân kiệt, danh sơn huyền thoại... Sau cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258), Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo đã chọn Vạn Kiếp lập đại bản doanh; xây dựng vòng tuyến quân sự vùng đông bắc, kéo dài từ biên giới Lạng Sơn qua ải Chi Lăng, Nội Bàng theo sông Lục Nam, qua Lục Đầu Giang, Bạch Đằng ra Biển Đông... trong đó, căn cứ địa Vạn Kiếp là trung tâm chỉ huy. Đây là trận đồ “thuỷ bộ hợp thành, tiến thế công, thoái thế thủ” để chống quân xâm lược Nguyên - Mông.

Hệ thống căn cứ quân sự Vạn Kiếp, gồm: Hố Thóc, Hang Tiền, Hành Cung, Sông Vang, Xưởng Thuyền, Lò Gốm, Hố Dầu, Cửa Khâu, Ao Cháo, Núi Thuốc (Dược Sơn), Trại Lính, Trung Quê, Bãi Thảo... Tại đây, Hưng Đạo Đại Vương đã viết những trước tác bất hủ như: “Vạn Kiếp Tông bí truyền thư”; “Hịch tướng sĩ văn”, định ra đường lối quân sự chiến lược, sách lược... khích lệ tinh thần “Sát Thát” của quân dân Đại Việt.

Tháng 6 năm 1285, tại đây Hưng Đạo Vương đã tập hợp hơn 20 vạn quân, hơn 1000 thuyền chiến đánh trận Vạn Kiếp, tiêu diệt hàng vạn quân Nguyên Mông, kết thúc cuộc kháng chiến lần thứ hai một cách nhanh gọn. Tháng 3 năm 1288, Hưng Đạo Vương cùng vua Trần Nhân Tông, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông tổ chức phản công, đánh trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng, tiêu diệt 10 vạn quân giặc. Toàn bộ tướng chỉ huy quân Nguyên - Mông gồm: Ô Mã Nhi, Trịnh Bằng Phi, Phàn Tiếp... bị tiêu diệt, bắt sống. Trận Bạch Đằng lịch sử đã kết thúc thắng lợi 3 lần kháng chiến chống đế quốc Nguyên - Mông vĩ đại của dân tộc.

Đất nước thanh bình, Trần Hưng Đạo cùng gia quyến về sống tại phủ đệ Vạn Kiếp. Vua Trần cho lập đền để thờ ngay từ khi Ngài còn sống gọi là “Sinh Từ”; Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông đích thân soạn văn bia ca ngợi công đức Hưng Đạo Vương gọi là “Sinh Bi”. Lúc Ngài lâm bệnh sắp qua đời, vua Trần Anh Tông về thăm và hỏi kế sách giữ nước, Hưng Đạo Vương trả lời: “Giặc cậy trường trận, ta dùng đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường trong binh pháp. Nếu quân giặc kéo đến ồ ạt như lửa cháy gió thổi, thì dễ bề chế ngự. Nhược bằng chúng kéo đến chậm, dần dà như tằm ăn lá, không lấy của dân, không cầu thắng chóng thì giặc đó mới là khó trị; phải dùng tướng giỏi, xem xét quyền binh như đánh cờ vậy, tuỳ thời mà làm, có được đạo quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, phải khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc, đó mới là thượng sách giữ nước” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ 8 (1300), Hưng Đạo Đại Vương qua đời tại tư dinh Vạn Kiếp. Sau khi mất Ngài được triều đình phong tặng: “Thái Sư Thượng Phụ, Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Suý, Vĩ Liệt Hồng Huân Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương”. Vua Trần sắc chỉ cho nhân dân Vạn Kiếp lập đền thờ tại thái ấp của người, nay là đền Kiếp Bạc.

Hơn 7 thế kỷ qua, trong tâm thức người dân Việt, Trần Hưng Đạo Đại Vương là Thanh Tiên Đồng Tử giáng trần để giúp dân diệt trừ giặc ngoại xâm. Sau khi hoá Ngài là Cửu Thiên Vũ Đế, trông coi 3 cõi Thiên Phủ (thượng giới), Trần Gian (trung giới), Âm Phủ (hạ giới) diệt trừ yêu ma, tà đạo để giúp nước hộ dân.

Hàng năm, từ ngày 15 - 20 tháng 8 âm lịch, ngày giỗ Đức Thánh Trần, nhân dân cả nước về trẩy hội đền Kiếp Bạc. “Tháng 8 giỗ Cha” đã trở thành Quốc lễ, đi vào tâm thức thiêng liêng của dân tộc.

Lệ xưa, đến ngày lễ hội, triều đình đều cử các quan đại thần về làm chủ tế. Ngày 10 tháng 8 âm lịch, hai làng Vạn Yên và Dược Sơn làm lễ cáo yết xin mở hội. Từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch, nhà nước tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm, hội quân trên sông Lục Đầu, lễ cầu an - hội hoa đăng trên sông Lục Đầu, lễ khai ấn, cùng Quốc tế ân ban... Ngoài ra, còn có nhiều nghi lễ dân gian như: hầu Thánh, cầu duyên, cầu tự, bắt ma, trừ tà, chữa bệnh vô sinh tục gọi là “bệnh Phạm Nhan”...
Hội đền Kiếp Bạc có nhiều trò chơi như: nhảy phỗng, bắt vịt, đua thuyền, chém Phạm Nhan... thể hiện tinh thần thượng võ để kính cáo với Đức Thánh, biểu dương tài năng, sức mạnh của quân dân Đại Việt sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc; cầu phúc, cầu mùa, cầu quốc thái dân an. Đây là những di sản văn hoá phi vật thể độc đáo ở đền Kiếp Bạc.

Diễn xướng hội quân là một trong những hoạt động đặc sắc và hấp dẫn của lễ hội mùa thu Kiếp Bạc, nhằm tái hiện lại cuộc hội quân của Quốc công tiết chế tại Vạn Kiếp năm 1285. Sử cũ ghi chép: Tháng 2 năm 1285, sau trận giao chiến quyết liệt với quân Nguyên - Mông ở ải Nội Bàng (Lục Ngạn, Bắc Giang), Trần Hưng Đạo lui về Vạn Kiếp. Tại đây, ông đã tập trung một binh lực rất lớn. Ông điều thêm quân dân các lộ Hải Đông và quân các vương hầu đến Vạn Kiếp “Hưng Vũ Vương Nghiễn, Hưng Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo Vương để chống quân Nguyên”. Sau khi tập hợp binh lực, Hưng Đạo Vương dựa vào địa thế của vùng Vạn Kiếp và sông Lục Đầu, xây dựng vòng tuyến quân sự vùng đông bắc, kéo dài từ ải Nội Bàng theo sông Lục Nam, qua Lục Đầu Giang, Bạch Đằng ra Biển Đông... trong đó, căn cứ địa Vạn Kiếp là trung tâm chỉ huy. Đây là trận đồ “thuỷ bộ hợp thành, tiến thế công, thoái thế thủ” để chống quân xâm lược Nguyên - Mông.

Diễn xướng hội quân là cuộc diễu hành phô trương lực lượng mạnh mẽ, là hình bóng của cuộc ra quân thuở xưa với nhiều tướng lĩnh cùng các đạo quân gồm đủ các lực lượng hợp thành, làm sống lại hào khí Đông A và truyền thống giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam, tôn vinh chiến công hiển hách của Hưng Đạo Đại Vương trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thế kỷ 13.

Diễn xướng hội quân được tổ chức vào ngày 17 tháng 8 âm lịch tại bến sông Lục Đầu, trước cửa đền Kiếp Bạc. Lực lượng tham ra diễn xướng hội quân gồm trên một nghìn người, bao gồm các võ sinh phái võ Nhất Nam, đội tàu thuyền ở Kênh Giang (Hải Dương), Đông Triều (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), đội múa rồng, lân (Gia Lộc, Hải Dương), đội trống trận Vạn Kiếp và nhân dân xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương). Trên bến Vạn Kiếp các đội quân biểu diễn võ thuật, bày thế trận, dưới sông Lục Đầu thuyền bè diễu hành cờ xí rợp trời. Diễn xướng hội quân diễn ra hoành tráng trong tiếng trống trận Vạn Kiếp, tiếng chiêng, tiếng hò reo vang dội thôi thúc lòng người.

Diễn xướng hội quân được chia thành 3 chủ đề. Chủ đề 1 “Quốc công tiết chế phụng lệnh hội quân”. Chủ đề này tái hiện lại cảnh sáu quân, gồm: đội quân võ tay không, đội quân đao kiếm, đội quân cung nỏ, đội quân vương hầu gia đồng, đội quân giáo mác và đội thủy quân hội về Vạn Kiếp, biểu diễn võ thuật, cung nỏ và nhận lệnh của Hưng Đạo Vương bày thế trận trên sông Lục Đầu. Chủ đề 2 “Hùng khí Lục Đầu”. Chủ đề này tái hiện lại khí thế đánh giặc cứu nước của quân dân Đại Việt, với chiến thắng Vạn Kiếp năm 1285 khiến chủ tướng giặc là Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy trốn; chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, bắt sống tướng chỉ huy của giặc là Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Chủ đề 3 “Ca khúc khải hoàn”. Diễn tả phong cảnh thanh bình của đất nước sau chiến thắng giặc ngoại xâm, những hình ảnh múa hát, trồng dâu, dệt vải, hái thuốc được tái hiện trên sân khấu.

Kết thúc diễn xướng hội quân là hình ảnh múa rồng, lân. Dưới sông các thuyền tiến về khu vực lễ đài. Đi đầu là thuyền mang biển tên các tướng, sau là 14 thuyền mang biển chữ tạo thành hàng chữ “Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí, Lục Đầu vô thủy bất thu thanh” (có nghĩa là: Ngọn núi nào ở Vạn Kiếp cũng âm vang tiếng hò reo giết giặc, Không có giọt nước nào ở sông Lục Đầu không rên rỉ tiếng kêu than của quân giặc bị chết trận).

Có thể nói, diễn xướng hội quân gợi nhớ về bản hùng ca giữ nước của dân tộc ở triều đại nhà Trần, gợi nhớ về Đức Thánh Trần linh thiêng trong tâm thức dân tộc Việt - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người kết tinh rực rỡ hào khí Đông A, linh hồn của các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược. Kiếp Bạc đã trở thành mảnh đất tâm linh, nơi tìm về dâng tấm lòng tri ân thành kính và lời cầu mong đươc phù giúp chiến thắng mọi trở lực, đạt được mọi điều sở nguyện trong đời của biết bao thế hệ người Việt, thuộc mọi tầng lớp và ở mọi miền đất nước.

Ban Quản lý Di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc

© Chí Linh quê tôi tổng hợp và sắp xếp các thông tin tự động bởi chương trình máy tính với sự hỗ trợ của Google Alerts, Skydoor & Baomoi. Tiêu đề và nội dung một số bài viết được Chí Linh quê tôi biên tập cho phù hợp. Link bài viết gốc được đính kèm dạng URL ở phần tác giả cuối mỗi bài viết.
Chí Linh quê tôi do Hội Người Chí Linh tại Đài Loan phát triển và quản lý. Phản hồi, đóng góp thông tin qua email: [email protected] 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bài viết được xem nhiều
CÔN SƠN - KIẾP BẠC:
HÀNH TRÌNH DI SẢN

qh
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây