Chùa - đền Bắc Đẩu nằm trong một quần thể các di chỉ, di tích thời Trần, từ trên núi Bắc Đẩu có thể bao quát cả một khu vực rộng lớn xung quanh: toàn cảnh đền Kiếp Bạc, sông Thương. Phía bắc chùa - đền có thung lũng Vạn Yên, một cánh đồng rộng và lưu giữ khá nhiều dấu tích gắn liền với cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông vĩ đại của dân tộc như: Sông Vang, Xưởng Thuyền, Hành Cung, có xóm Hống - một trung tâm sản xuất gốm thời Trần - Lê sơ ... phía nam là thung lũng đền Kiếp Bạc, Hang Tiền. Phía đông xa hơn về hai mạn Bắc Nam là hai dãy Kỳ Lân và Phượng Hoàng, bộ phận kéo dài của dãy Yên Tử đổ về bao bọc khu vực Kiếp Bạc.
Cùng với dòng chảy lịch sử chùa - đền Bắc Đẩu cũng chịu tác động mạnh mẽ của các biến cố lịch sử, sự bao trùm của các lớp văn hoá qua các thời kỳ. Những cứ liệu xa xưa về di tích lịch sử quá ít ỏi chỉ có thể nhận biết được một số nét khái quát về ngôi chùa vào những thập niên 30 - 40 của (thế kỷ XX).
Chùa thờ phật, thờ mẫu và đặc biệt trong chính điện có phối thờ thần Bắc Đẩu. Về sự tích thờ thần Bắc Đẩu, một số tư liệu Hán nôm như: ''Hải Dương phong vật chí'', ''Lục Nam địa chí '' có chép như sau: Vạn Kiếp có núi Bắc Đẩu . Tục truyền có nhà buôn đêm đỗ thuyền ở dưới núi nghe thấy tiếng người nói về sự thiện ác, thọ yểu của nhân gian đến lúc gà gáy bỗng nổi cơn gió lớn, mây hống nổi lên văng vẳng có tiếng vòng ngọc rồi thấy một người cao lớn trên đỉnh núi đội mũ sao, mặc áo vóc, ngồi xe mây bay thẳng lên trời. Sớm hôm sau thuật lại truyện như thế, thổ dân bèn dựng đền ở đấy để thờ phụng gọi là đền Bắc Đẩu.
Để hiểu được bản chất của hiện tượng thờ thần Bắc Đẩu, phải đặt chùa - đền Bắc Đẩu với chùa Nam Tào trong tương quan với đền Kiếp Bạc nơi thờ phụng người anh hùng Trần Hưng Đạo.
Như đã biết văn hoá tâm linh Phương Đông Nam Tào - Bắc Đẩu là 2 vị thần của đạo giáo. Nam Tào còn gọi là thần sinh, coi sự sống ở phương nam. Bắc Đẩu là vị thần tử, coi về sự chết ở phương bắc. Ở các đạo quán hay ở nhiều ngôi chùa Việt thường có tượng hai vị thần này là được đặt bên Ngọc Hoàng thượng đế, trong đó tượng thần Nam Tào đặt bên tả, tượng thần Bắc Đẩu đặt bên hữu.
Tại Kiếp Bạc, chiếm vị trí trung tâm là Trần Hưng Đạo, tả hữu là hai ngôi chùa phối thờ thần Nam Tào và thần Bắc Đẩu. Thực chất bộ ba này là một đơn nguyên lớn của đạo giáo mà ở đó vị trí của Đức Thánh Trần đã được đưa lên vị trí cao nhất: Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Từ lâu, trong tâm thức dân gian Đức Thánh Trần không phải là một con người trần tục và xuất thân từ thượng giới. Điều đó thể hiện trước tiên thể hiện qua những truyền thuyết dị thường đậm chất đạo giáo. Trong Việt Điện u linh, Trần triều hiển thánh, Nam Hải dị nhân.... đều có chép sự xuất thế của Trần Hưng Đạo là do vị Thánh Thanh Tiên đồng tử đầu thai xuống hạ giới.
Cũng theo truyền thuyết dân gian, sau khi hoàn thành nhiệm vụ Thanh Tiên đồng tử trở về trời và được phong là Cửu Thiên Vũ Đế với sứ mệnh diệt trừ yêu ma tà đạo ở cả 3 cõi: Thiên đình, trần gian và âm phủ. Nhưng trong tâm thức dân gian người được phong là Ngọc Hoàng Thượng đế cai trị chốn trần gian có quan Nam Tào, Bắc Đẩu giúp việc. Đã có một thời người ta cho rằng di tích Nam Tào có thể là nơi thờ Yếu Kiêu còn di tích Bắc Đẩu là nơi thờ Dã Tượng, hai người tướng trung thành của Trần Hưng Đạo.
Do vậy, có thể cho rằng sau khi Trần Hưng Đạo mất cùng với việc dựng đền Kiếp Bạc, nhân dân đã lập chùa trên núi Dược Sơn và núi Bắc Đẩu ngày nay trong đó phối thờ thần Nam Tào, thần Bắc Đẩu và coi đó là những vị thần giúp việc cho Đức Thánh Trần. Cũng không ngoại trừ giả thiết, trên núi Bắc Đẩu (ngày nay) đã từng cho một ngôi chùa cổ thờ phật, nhưng phải đến khi lập đền Kiếp Bạc hoặc ở giai đoạn muộn hơn với sự phát triển của tín ngưỡng Đức Thánh Trần, nhân dân đã phối thờ hai vị thần này trong chùa. Tại di tích chùa Nam Tào đã phát hiện những dấu vết kiến trúc thời Trần.
Với vai trò của một dòng đạo giáo Việt Nam, là hiện thân của Ngọc Hoàng Thượng đế cai trị chốn nhân gian, Đức Thánh Trần cần có sự giúp việc của hai vị thần Nam Tào, Bắc Đẩu. Do vậy, sự xuất hiện của hai vị thần này trong hai ngôi chùa ở thế chầu vào đền Kiếp Bạc chính là thể hiện tâm nguyện đó của dân gian.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, chùa - đền Bắc Đẩu có kiến trúc hình chữ Đinh, không gian thoáng đãng với một số công trình chính như tiền đường, chính điện, nhà tổ, cung thờ tam toà Thánh Mẫu. Trong chính điện tượng thờ được bài trí theo trật tự "tiền thần hậu phật" ở gian chính điện có tượng thờ quan Bắc Đầu bằng đồng. Trong kháng chiến chống Pháp, nhận thấy núi Bắc Đẩu có vị trí chiến lược quan trọng, thực dân Pháp đã đốt chùa, chặt cây rừng dựng bốt để trấn giữ con đường thuỷ (sông Thương).
Trước tình hình đó, nhân dân địa phương đã chuyển tượng thần Bắc Đẩu vào đền Kiếp Bạc trong suốt một thời kỳ dài hơn 30 năm, trên nền móng cũ của chùa Bắc Đẩu là một khu hoang phế. Năm 1989, được sự hỗ trợ kinh phí của UBND tỉnh Hải Dương, nhân làng Vạn Yên đã dựng lên kiến trúc 3 gian trên nền móng cũ của chính điện xưa và gọi là "Bắc Đẩu cung". Thần Bắc Đẩu được dân làng rước ra đây để thờ phụng. Về cơ bản chùa được dựng trên nền móng cũ nhưng toạ lạc trên một không gian hẹp diện tích khoảng 1600m2 với một số công trình chính: Bắc Đẩu cung, cung thờ tam toà Thánh Mẫu, cung thờ Ngũ vị tôn ông. Trong chùa tượng được bài trí theo trật tự "tiền thần hậu phật". Thần Bắc Đẩu được đặt ở gian chính giữa, phía sau là ban thờ phật.
Tháng 12 năm 2005, Viện khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc tiến hành khai quật khảo cổ học tịa di tích Bắc Đẩu. Kết quả bước đầu đã xác định được nền móng toà tiền tế, chân móng một số công trình phụ cận của chùa Bắc Đẩu và nhiều hiện vật, di vật có niên đại thời Trần, Lê. Dựa trên các cứ liệu khảo cổ học, tháng 1 năm 2007, Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã tiến hành trùng tu, tôn tạo chùa - đền Bắc Đẩu với hàng chục hạng mục công trình như cổng đền, tả hữu vu, đền chính, các công trình phụ trợ…
Hiện nay, lễ hội chùa - đền Bắc Đẩu gắn liền với các hoạt động của lễ hội Kiếp Bạc. Vào ngày 20 tháng 8 và 28 tháng 9 âm lịch hàng năm, nhân dân tổ chức rước lễ từ các giáp ra đền Kiếp Bạc tiến hành tế lễ, sau đó rước về chùa - đền Bắc Đẩu.
LỤC ĐẦU GIANG
Lục Đầu Giang hay Sông Lục Đầu ở đây là đoạn cuối của sông Thương có chiều dài hơn 10 km, chỗ rộng nhất hơn 1 km chảy sát qua mé Tây Nam đất Vạn Kiếp.
Gọi là Sông Lục Đầu vì đoạn sông này phía trên nhận nước của ba con sông, Sông Cầu, Sông Thương, và sông Lục Nam, phía dưới hợp với Sông Đuống rồi đổ ra biển đông bằng hai dòng sông lớn là sông Thái Bình và sông Kinh Thầy. Vũ Phương Đề trong sách Công dư tiệp kí có chép về sông Lục Đầu như sau: “Sông Lục Đầu ở huyện Chí Linh, giáp các huyện Phượng Nhãn, Yên Dũng, Quế Dương và Gia Định. Một chi từ sông Phượng Nhãn đi xuống, một chi từ sông Xương Giang đi tới, hội lại thành ngã ba sông, một chi từ sông Như Nguyệt đi xuống. Một chi từ sông Tam Giang đi lại gặp nhau ở sông Bình Than. Sông này trong sạch, nước thơm ngon người ta gọi là nước Bình Than. Các ngọn sông hội lại ở sông Triều Dương làm ra một khúc sông rất rộng lớn. Ở đấy lại chi thành hai chi: Một chi chảy đến bến đò Bàn Khê rồi đi về phía Nam, một chi chảy đến vũng Trần Xá rồi đi về phía Đông. Tất cả 6 chi ấy làm thành sông Lục Đầu. Giữa sông có bãi cát gọi là bãi Đại Than. Các nhà phong thuỷ gọi kiểu đất "lục long tranh châu" (sáu con rồng tranh nhau một hòn ngọc)”.
Một dòng sông toả đi sáu ngả, Lục Đầu lúc nào cũng mênh mang sóng nước vô bờ. Đây là nguồn cung cấp nước, chuyển tải phù sa cho đồng ruộng, nguồn thuỷ sản tự nhiên vô cùng phong phú cho một vùng rộng lớn của đông bắc châu thổ Bắc Bộ. Ngoài ra, sông Lục Đầu có vai trò quan trọng về giao thông thuỷ bộ, góp phần quan trọng vào giao thương kinh tế, quân sự: người ở các miền Thái Nguyên, Bắc Cạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc xuôi theo dòng sông Cầu (Nguyệt Đức) về Vạn Kiếp. Người ở vùng Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang theo sông Thương nước chảy đôi dòng, theo sông Lục Nam mà xuống nơi đây. Cùng với nhân dân miền ngược, người ở các tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh theo sông Đuống mà về Vạn Kiếp rất thuận lợi. Dòng sông Đuống (còn gọi là Thiên Đức) nối liền sông Hồng và sông Lục Đầu, hẳn là đường giao thông quan trọng từ kinh đô Thăng Long đến Vạn Kiếp, cũng tức là miền Đông bắc nước ta thời xưa. Người ở Hải Phòng, Quảng Ninh ngược nước Kinh Thầy. Rồi người Thái Bình, Hưng Yên thì lênh đênh sóng nước hệ sông Thái Bình để về Vạn Kiếp.
Vì thế mà, suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, Lục Đầu giang luôn là vị trí trọng tâm của căn cứ địa Vạn Kiếp. Năm 1283, Hưng Đạo Vương đã tổ chức một cuộc hội quân lớn 20 vạn quân, hơn một nghìn chiến thuyền đến họp ở Vạn Kiếp, để chống quân Nguyên Mông. Năm 1285, tại dòng sông Lục Đầu đã diễn ra trận Vạn Kiếp lịch sử, khiến Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn về nước. Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ 2.
Sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông đem lại thái bình cho đất nước. Hưng Đạo Vương về nghỉ tại thái ấp của ông ở Vạn Kiếp.
Một hôm, ông cùng gia nhân dùng thuyền nhỏ đi dạo cảnh trên dòng sông Lục Đầu. Khi con thuyền đã quay về gần núi Dược Sơn, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền lại, đứng trên mũi thuyền Người rút thanh kiếm của mình ra khỏi bao và nói: “Thanh gươm này đã gắn bó với ta gần cả cuộc đời. Trong suốt cuộc chinh chiến nó đã dính bao máu giặc Thát, nó đã từng được bôi phân gà với vôi tôi và bồ hóng để chém đầu tên giặc Phạm Nhan dơ bẩn. Nay ta muốn nhờ dòng nước sông Lục Đầu để gột rửa sạch nhứng vết nhơ trên nó”. Nói rồi, Người ném thanh gươm xuống dòng sông.
Tương truyền, tại khúc sông Trần Hưng Đạo thả kiếm, sau này đã hình thành một bãi bồi chạy dài rất giống hình thanh kiếm, dân gian gọi đó là Cồn Kiếm. Bãi bồi ngày nay vẫn còn trên dòng sông Lục Đầu trước cửa đền Kiếp Bạc.
Thực ra huyền thoại “bãi kiếm thần” của Trần Hưng Đạo, muốn nhờ sóng nước Lục Đầu gột rửa chiến tranh để giữ vững thái bình.
Hiện nay, tại dòng Lục Đầu giang vẫn diễn ra nhiều hoạt động nghi lễ gắn với lễ hội Kiếp Bạc như: Bơi chải, lễ cầu siêu và thả hoa đăng, đặc biệt là lễ hội quân trên sông Lục Đầu với 100 chiếc thuyền lớn tham gia, đã trở thành nét đặc trưng của lễ hội mùa thu Kiếp Bạc.
VƯỜN THUỐC CỔ NÚI DƯỢC SƠN - DƯỢC LĨNH CỔ VIÊN
Núi Dược Sơn- còn gọi là Dược Lĩnh cổ viên- là một trong những "bát cổ" của đất Chí Linh xưa. Địa thế như rồng uốn khúc từ trên núi xuống giống hình tay ngai.
Trong sách "Đại Nam nhất thống chí" phần tỉnh Hải Dương có chép về địa thế của núi Dược Sơn như sau: "Núi Dược Sơn ở cách huyện Chí Linh 19 dặm về phía Bắc, tiếp nối với núi Vạn Yên, thuộc huyện Phượng Nhỡn tỉnh Bắc Ninh, dưới núii có động Nam Tào, đối diện với động Bắc Đẩu núi Vạn Yên". Cũng trong sách này, ở mục Cổ tích có ghi:" Vườn cổ Dược Sơn: Ở xã Dược Sơn huyện Chí Linh là chỗ nhà cũ của Trần Hưng Đạo Vương, nền cũ vẫn còn ". Sách Lịch sử Việt Nam, tập I ghi: "Từ thế kỷ XIII Trần Quốc Tuấn và Thái y viện nhà Trần đã coi trọng việc sử dụng các cây thuốc trong nước để chữa bệnh cho nhân dân và vết thương cho quân lính. Tại Vạn Kiếp Quốc Tuấn gây dựng được một khu vực trồng cây thuốc khá rộng (ngọn núi đó đến nay vẫn mang tên là Dược Sơn)".
Vườn cây lúc đầu nhỏ, sau này càng mở rộng, được gọi là Dược Sơn. Chắc hẳn vườn cây thuốc đặc biệt này góp phần không nhỏ vào việc chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho quân và dân để chiến thắnh ngoại xâm, những truyền thuyết về di tích Dược Sơn vẫn còn đến ngày nay. Truyền thuyết kể lại rằng: "Một đêm Hưng Đạo Đại Vương nằm mơ thấy có một ông già đầu quấn khăn nâu, mình mặc áo dài đen, tay xách túi cói vào tìm gặp. Ông lão vái ba vái nói: “Tôi là Dược linh, biết Đức Ông cần thuốc nên đem biếu”. Hưng Đạo Vương cảm tạ và đáp lễ nhận túi. Mở túi Quốc Công chỉ thấy có mấy cây thuốc giống, ngẩng lên Hưng Đạo Vương không thấy ông lão đâu nữa. Chuyện cây thuốc làm ông không sao ngủ được.Về sau, trên đường về Xưởng Thuyền cách Vạn Kiếp vài dặm Hưng Đạo Vương thấy bên đường có những cây non giống như cây thuốc trong mơ, ông đã đem về trồng ở trên núi rồi tự tay hái lá làm thuốc đắp vết thương cho quân lính, quả nhiên vết thương lành hẳn. Từ đó núi có tên là Dược Sơn. Dân trong vùng truyền rằng thuốc trồng ở Dược Sơn không có thứ thuốc nào sánh kịp. Phải chăng đây là vườn thuốc quốc gia đầu tiên của nước ta và cho đến ngày nay vẫn là "Độc nhất vô nhị". Vườn cây thuốc này rộng tới "hơn 10 ha với khoảng 200 loài cây thuốc, theo những lời truyền qua các thế hệ". Theo thống kê của Viện y học dân tộc Trung ương thập kỉ 70 (thế kỷ XX) thì khoảng # 600 cây trồng và cây hoang dại là cây thuốc Nam. Hiện nay đi lướt phía sườn đồi còn đếm được hơn 50 loài đang tồn tại điển hình như: Cây Lạc Tiên (Hồng dây), cây Móng hổ, cây cỏ Chỉ thiên, Cây Ruột già, cây Mặt quỷ, cây Hà thủ ô, cây Mặt trời, cây Bồ Giác...
Dược Sơn gắn bó mật thiết với di tích Kiếp Bạc, với tên tuổi vị anh hùng Trần Hưng Đạo. Quả vậy, hàng năm về lễ hội Kiếp Bạc dù tiết trời thế nào mọi người đều cố leo lên đền Nam Tào thăm núi Dược Sơn uống nước lá thuốc Dược Sơn. Đứng đây không khỏi xúc động trước đất trời, sống núi mênh mông mà cha ông ta đã tốn bao xương máu, công sức giữ gìn đến ngày nay. Người ta còn tìm mua những vị thuốc cây thuốc được tin là linh dược.
Trải qua 7 thể kỷ, Dược Sơn nay đã hoang sơ, cây thuốc nam đã bị chặt phá thay vào đó là những cây có giá trị kinh tế cao như: vải, nhãn... Thật đáng tiếc! di tích Kiếp Bạc qua nhiều đời được nhân dân ta trân trọng giữ gìn, các triều đại luôn có sắc chỉ nghiêm cấm mọi hành động vi phạm. Năm 1962 đã được nhà nước xếp hạng đợt đầu, năm 1994 lại được xếp vào hàng những di tích đặt biệt quan trọng được quan tâm trùng tu, bảo tồn. Kiếp Bạc cùng Côn Sơn hình thành một quần thể rất phong phú về di chỉ, đền chùa, gắn với một vùng thiên nhiên hùng vĩ có rừng, núi, sông hồ. Giá trị di tích càng lớn lao vì cảnh quan môi trường và sự đa dạng sinh học. Kiếp Bạc không thể thiếu cây thuốc với rừng cây trên Nam Tào - Bắc Đẩu.
Khu di tích Côn Sơn -Kiếp Bạc đang được quy hoạch tổng thể để bảo tồn, tôn tạo thành một khu du lịch - văn hoá lớn. Trong đó vườn thuốc Dược Sơn được quan tâm như một hạng mục quan trọng, bởi vì ngoài ý nghĩa lịch sử còn có giá trị đặc biệt về y học và kinh tế. Phục hồi được vườn thuốc Dược Sơn sẽ làm cảnh quan khu di tích Kiếp Bạc thêm phong phú thơ mộng đồng thời có tác dụng giáo dục các thế hệ sau hiểu biết hơn về vai trò của căn cứ Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỉ XIII, để các thế hệ sau tự hào về truyền thống yêu nước về mảnh đất "địa linh nhân kiệt" cũng khôi phục được một trong bát cổ của Chí Linh - một việc làm mà người dân địa phương vẫn ao ước.
MỘT SỐ KẾT QUẢ KHẢO CỔ HỌC
I. Giai đoạn từ năm 1972 đến năm 1979.
1. Khu di tích Kiếp Bạc.
a) Sân sau đền Kiếp Bạc:
Năm 1972, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam và Ty văn hoá Hải Hưng đã tổ chức khai quật, nghiên cứu khảo cổ học phía sau đền Kiếp Bạc với quy mô lớn (180m
2 ). Kết quả đã phát hiện được dấu tích nền móng kiến trúc phủ đệ của Hưng Đạo Đại Vương ở thế kỷ XIII gồm: 2 cấp nền nhà, vết tích gạch bó thềm, hàng chân tảng cột, gạch vuông : 39 x 39 x 8 cm, có hoa văn in nổi hình hoa thị (gạch hoa thị), đường ống dẫn nước bằng đất nung. Ngoài ra, còn tìm thấy nhiều hiện vật: Ngói mũi hài, ngói chiếu, gạch trang trí, đồ gốm có men: men ngọc, men da lơn, men nền trắng hoa nâu...; các đồ sắt, đồng: dao, đinh, tiền đồng niên hiệu Nguyên Phong thông bảo ( Trần Thái Tông 1251 - 1258). Đây là di tích gốc, có giá trị về nhiều mặt, bước đầu hiểu biết cụ thể về quy mô, kiến trúc…của phủ đệ Vạn Kiếp.
Dấu tích phủ đệ của Trần Hưng Đạo Đại Vương, thế kỷ XIV,
phát hiện sau đền Kiếp Bạc, năm 1972.
b) Núi Dược Sơn ( núi Nam Tào)
Tại hố khai quật ở mặt bắc chân núi Nam Tào, cách đền Kiếp Bạc 300m, các nhà khảo cổ của Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam và Ty văn hoá Hải Hưng đã tìm thấy hai lò nung (
lò cóc). Lò được khoét vào đất chân núi, phần cửa và bụng lò xây bằng gạch vồ. Nền lò hình tròn, có 3 ống thông hơi ở vách trong. Ngoài ra, còn phát hiện nhiều hiện vật trong khu vực này: Lon sành, mảnh đồ men, mảnh gạch ngói màu xanh xám…Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc của lò và các di vật tìm được cho thấy đây là loại lò nung gạch và đồ sành có niên đại thế kỷ XIV, thế kỷ XV.
c) Ngoài ra, trong giai đoạn này còn có một số cuộc thám sát, khai quật khảo cổ học khu vực Ao Cháo (
Kiếp Bạc)…
Lò gốm cóc, phát hiện tại chân núi Nam Tào, năm 1972
2. Khu di tích Côn Sơn.
Tháng 3, 4 năm 1979, Ty Văn hoá và thông tin Hải Hưng đã tổ chức nhiều cuộc điều tra, thám sát khảo cổ ở Côn Sơn:
a) Đăng Minh Bảo Tháp ( tháp mộ đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang)
Tại hố khai quật cạnh Đăng Minh Bảo Tháp ( tháp mộ của đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang tôn giả trùng tu năm 1792 ) đã phát hiện những di vật kiến trúc của ngôi tháp bằng đất nung. Sau khi sắp xếp các chi tiết kiến trúc tìm được cho thấy đây là ngôi tháp cấu trúc hình vuông. Căn cứ đặc điểm vật liệu, kiến trúc, hoa văn và thư tịch cổ, các nhà khảo cổ học đã nhận định đây là Đăng Minh Bảo Tháp được xây dựng ở thế kỷ XIV, đặt xá lỵ của Huyền Quang tôn giả sau khi Người viên tịch tại Côn Sơn. Kết quả khai quật này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử di tích và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Trần.
Đăng Minh Bảo Tháp, phát hiện tại Côn Sơn, năm 1979.
b) Khu vực Thanh Hư Động:
Tại hố thám sát khu vực khu nền nhà lớn nhất, cách Thạch Bàn 80m, các nhà khảo cổ đã phát hiện 1 kè đá dài 27m và nhiều hiện vật gồm: bát men ngọc có dấu con kê, một vỉa gạch, ngói mũi nhọn ( 15x21cm)…Trên cơ sở phân tích đặc điểm kiến trúc, hoa văn trang trí trên các di vật, kết hợp tư liệu chính sử, bước đầu nhận định đây là khu vực liên quan mật thiết đến quan Tư đồ phụ chính Trần Nguyên Đán. Nhiều khả năng đây là nền nhà cũ của ông.
c)Chùa Côn Sơn.
Tại hố thám sát vuông góc với Thượng Điện (phía bên phải chùa Côn Sơn), ở độ sâu hơn 2m đã xuất lộ 3 dấu tích kiến trúc kè đá chạy song song với tường Thượng điện. Lớp văn hóa từ 1,2m trở xuống phát hiện nhiều hiện vật đặc trưng thời Trần, thậm trí lần đầu tiên được biết đến: phù điêu hình chữ S lồng, ngói trang trí hoa văn hình trán bò, lá đề, sen cách điệu, hoa cúc dây, sen phượng, rồng chầu trong hình lá đề…Căn cứ các thư tịch cổ, kết quả khai quật, các di vật tìm thấy, cho biết các hiện vật ở lớp văn hóa cuối cùng của hố thám sát có niên đại thời Trần.
II. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000.
1. Khu di tích Kiếp Bạc.
a) Di tích Xóm Hống - Cánh đồng Vạn Yên xã Hưng Đạo.
Năm 1996, sau các cuộc điều tra, khám sát khảo cổ học của Bảo tàng Hải Hưng, Trường Đại Học tổng hợp, chuyên gia Nhật Bản từ năm 1986 -1989, tại di tích xóm Hống thuộc cánh đồng Vạn Yên thuộc khu di tích đền Kiếp Bạc, Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Hải Dương đã phối hợp tổ chức khai quật tại đây với diện tích là 42m
2. Qua 10 lớp đất đào, ở độ sâu từ 190 - 245cm, các nhà khảo cổ đã xác định đợc 3 tầng văn hoá và phát hiện nhiều hiện vật giá trị: Đồ gốm: Bát, đĩa, âu, bình dạng ống nhổ,… đồ sành: mảnh lon, vò,…vật liệu kiến trúc: gạch, ngói mũi hài,… than tro, nền bếp đất nung, mảnh bao nung, con kê, tiền đồng, đá cuội, đá ráp…Căn cứ vào kết quả khảo cổ học những năm trước tại di chỉ, kết hợp tư liệu điền dã về lịch sử khu di tích, vị trí địa lý của di chỉ và loại hình, số lợng lớn di vật tìm thấy tại hố khai quật, các chuyên gia khảo cổ đã nhận định: các di vật trên hầu hết có niên đại thời Trần và Xóm Hống là một trung tâm sản xuất đồ gốm tồn tại từ thế kỷ XIII đến XVI.
b) Di tích Mộ Cổ - khu di tích Kiếp Bạc.
Tháng 3/2000, Trên sườn núi Trán Rồng, thuộc khu di tích Kiếp Bạc đã phát hiện một ngôi mộ. Mộ kết cấu trong quan, ngoài quách, xung quanh xây gạch (40cmx 40cm x 5cm), gồm: Quách là một chum đất nung màu đỏ xẫm, trong chum đất nung là thạp gốm hoa nâu. Trong thạp là cốt hoả táng và 2 di vật là gương đồng và khánh bạc được chạm trổ tinh xảo. Căn cứ vào đặc điểm của ngôi mộ, hoạ tiết trang trí và các hiện vật tìm thấy trong thạp, các chuyên gia khảo cổ nhận định đây là ngôi mộ cổ, quý hiếm, chủ nhân là một phụ nữ quyền quý thời Trần, niên đại thế kỷ 13.
Mộ cổ thời Trần (TK-XIII), phát hiện tại sườn núi Rồng sau đền Kiếp Bạc, tháng 03/2000
c) Di tích Sinh Từ - khu di tích Kiếp Bạc.
Năm 2000, Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam đã tổ chức thám sát khảo cổ học tại di tích Sinh Từ (Từ Cũ). Nơi đây trong sử sách, nhân dân vẫn nhắc nhớ về phủ đệ cũ và vị trí ngôi đền thờ Hưng Đạo Đại Vương khi Người còn sống đã được vua Trần cho xây dựng. Tương truyền, sau khi Hưng Đạo Đại Vương qua đời, nhân dân đã chuyển nguyên vật liệu của Sinh Từ về dựng đền Kiếp Bạc hiện nay. Tại di tích, mở 3 hố thám sát với diện tích là 23,3m
2, kết quả đã phát hiện được dấu tích kiến trúc của 3 cấp nền, 21 đoạn ống cống thoát nước bằng đất nung hình trụ (đường kính 20cm) nối liền nhau và vết tích bờ kè bằng đá vôi, đá cuội. Ngoài ra, còn tìm thấy nhiều di vật đồ gốm. đất nung, thóc cháy…có niên đại thế kỷ 13, 14. Theo nhận định ban đầu của các chuyên gia khảo cổ thì Sinh Từ nằm ở đoạn cuối của sông Vang, di tích như một ốc đảo xung quanh là nước. Khi đó, bờ kè đá vôi, đá cuội có chức năng ngăn nước giữa sông Vang với các công trình kiến trúc của phủ đệ Sinh Từ.
d) Di tích Hố Thóc
Hố Thóc nằm trong thung lũng lòng chảo, xung quanh có núi bao bọc, thuộc địa phận xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, cách đền Kiếp Bạc 2,5km về phía đông nam.Tương truyền, đây là kho quân lương của đại bản doanh Vạn Kiếp do Thiên Thành Công chúa - phu nhân Trần Hưng Đạo Đại Vương phụ trách.
Năm 2000, Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam tổ chức mở 3 hố khai quật trong khu vực Hố Thóc đã tìm thấy nhiều dấu vết: tầng đất có mầu đen, nhiều hiện vật gốm, vũ khí, đặc biệt là thóc cháy… Theo nhận định ban đầu, các chuyên gia khảo cổ học cho rằng tại di tích Hố Thóc có sự tồn tại của một dấu tích thời Trần có liên quan đến lương thảo.
Dấu tích thóc cháy tại Hố Thóc , khai quật tháng 06/2000
e) Viên Lăng:
Viên Lăng nằm ở gò đất hình tròn cách đền Kiếp Bạc 300 về phía Đông Nam. Đây là điểm đắc địa, được xem như là viên ngọc của khu vực. Tương truyền, phần mộ của Trần Hưng Đạo Đại Vương được táng tại đây. Đến thời Nguyễn, tổng đốc Hải Dương Lê Hoan đã chọn vị trí này để dựng đền thờ mình (
đền Thượng). Về sau một số hộ dân đã dựng nhà ở tại khu vực này. Năm 2000, các nhà khảo cổ học của Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã tiến hành khai quật, phát hiện dấu tích nhà ở của dân và tìm thấy rải rác mảnh sành thời Trần.
g) Hố Chân Bia:
Hố chân bia nằm ở chân núi Trán Rồng, cách đền Kiếp Bạc 400m về phía Đông. Năm 2000,Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã tổ chức thám sát, khai quật khảo cổ học tại khu vực này nhằm tìm kiếm dấu tích tấm bia Thần tích Sinh Từ, do vua Trần Thánh Tông tự soạn ca ngợi công đức Hưng Đạo Đại Vương, khi Người còn sống. Kết quả đã phát hiện được một số gạch 40cm x 40 cm x 5cm trang trí hoa dây ở giữa, một bậc tam cấp ớ phía tây bắc khu đất.
h) Ao Cháo:
Tương truyền đây là nơi dưỡng thương, trị bệnh cho quân sỹ của đại bản doanh Trần Hưng Đạo Đại Vương. Tại đây, người dân đã phát hiện nhiều viên gạch 40cm x 40cm x 5xm ở phía trong bờ kè và nhiều lọ gốm kiểu nậm rượu. Phỏng đoán ban đầu, đây có thể là đồ đựng thuốc chữa bệnh.
2. Khu di tích Côn Sơn:
a) Khu vực tam quan chùa và khu vực đỉnh núi Kỳ Lân:
Từ năm 1992 -1994, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng đã tiến hành tổ chức thám sát, khai quật khảo cổ học tại một số điểm di tích, như: khu vực tam quan chùa Côn Sơn, khu vực đỉnh núi Kỳ Lân (
phục vụ dự án xây dựng nhà bia ở khu vực Bàn cờ tiên).
Kết quả: Đã phát hiện nhiều mảnh gạch, ngói, gốm thời Trần.
b)Khu Vườn tháp:
Năm 2000, Bảo tàng Hải Dương phối hợp Ban quản lý dích tích Côn Sơn - Kiếp Bạc mở hố khai quật tại khu vực vườn tháp sau chùa, cách nhà tổ 50m. Kết quả đã thu được hơn 2000 hiện vật, gồm: Ngói mũi hài đơn, mũi hài kép, phù điêu hình rồng bằng đá, con giống đất nung, dấu vết các vỉa đá kè… Căn cứ thư tịch cổ, dấu tích kiến trúc, di vật tìm thấy, các nhà khảo cổ nhận định rất có thể đây là một tòa Cửu phẩm liên hoa thời Trần của chùa Côn Sơn.
c) Khu vực Thanh Hư Động ( Đền thờ Trần Nguyên Đán)
Năm 2000, Bảo tàng tỉnh Hải Dương tiếp tục quay trở lại khu vực Thanh Hư động, mở 3 hố khai quật khảo cổ học nhằm xác định quy mô của công trình kiến trúc. Kết quả đã xuất lộ 1 nền nhà được làm theo kiểu giật cấp ( nền cấp 1: 29,0m x 9m; cấp 2: 29m x 7.5m; cấp 3: 1sân dài 29m x 11,2m) và nhiều gạch ngói, đinh thuyền… Các nhà khảo cổ cho rằng khu vực này là trung tâm của Thanh Hư Động và là đền thờ của quan tư đồ trần Nguyên Đán sau khi ông qua đời.
Khai quật tại Thanh Hư Động, năm 2000 |
|
d) Cầu Thấu Ngọc
Tại hố khai quật khu vực cầu thấu ngọc, các chuyên gia khảo cổ đã tìm thấy nhiều mảnh ngói các loại, trong đó phần lớn là ngói mũi nhọn, có móc thời Trần, Lê. Căn cứ các nguồn tư liệu, kết quả khai quật cho thấy cầu Thấu Ngọc là bộ phận quan trọng của Thanh Hư Động.
Ngoài ra, trong giai đoạn còn có một số cuộc thám sát, khai quật khảo cổ học khu vực nền nhà cũ của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi và Chùa Côn Sơn.
III. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2006.
1. Khu di tích Kiếp Bạc.
a) Di tích Nam Tào, Bắc Đẩu:
Từ tháng 12/2005 đến tháng 1/2006, Viện Khảo cổ Việt Nam phối kết hợp Ban Quản lý di tích (QLDT) Côn Sơn - Kiếp Bạc tổ chức thám sát, khai quật khảo cổ học tại di tích Nam Tào, Bắc Đẩu. Tại di tích Bắc Đẩu mở một hố thám sát với diện tích 6m
2, địa tầng hố thám sát biểu hiện sự xáo trộn rõ rệt từ 15 - 20cm là gạch, ngói, lớp đất dưới khá thuần nhất của đất đồi. Dấu tích kiến trúc cổ không còn, đã bị san lấp làm mặt bằng xây dựng đồn, bốt của Pháp.
b) Di tích Nam Tào:
Cùng đợt khai quật nói trên (12/2005 - 1/2006), tại di tích Nam Tào, ba hố khai quật đã được mở trên nền kiến trúc cũ của toà Tiền tế. Kết quả đã tìm thấy dải móng hẹp, chạy dài theo mặt bằng kiến trúc cổ và dấu vết nền móng của một số công trình phụ cận như: bể nớc, nhà chè, gác chuông… Đặc biệt, tại đây đã phát hiện một tấm bia đá:
Vạn Dược công đức bi ký, dựng năm Bảo Đại thứ 4 (1929) và nhiều hiện vật gốm, sành, sứ khác. Căn cứ vào kỹ thuật xây dựng móng, kiểu dáng, chất liệu di vật, nội dung bi ký… các chuyên gia khảo cổ nhận định di tích Nam Tào có niên đại sớm nhất vào thế kỷ XIII, XIV và được trùng tu xây dựng lại ở thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX, tạo nên một quần thể di tích để tôn vinh Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương.
Bia: Vạn Dược công đức
2. Khu di tích Côn Sơn
Tả hữu hành lang cổ và phía sau tổ đường chùa Côn Sơn:
Tháng 12/ 2005, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với Ban QLDT Côn Sơn - Kiếp Bạc tổ chức mở 3 hố khai quật tại tả, hữu dãy hành lang cổ và phía sau nhà tổ chùa Côn Sơn.
Kết quả ban đầu cho thấy dấu vết kiến trúc khá rõ:
- Ở phía sau nhà tổ, gồm nền móng kiến trúc chạy dài được kè đá chèn lẫn gạch, các nhà khảo cổ cho rằng đây rất có thể là móng kiến trúc của nhà hậu đường chùa Côn Sơn. Tại hố khai quật ở tả, hữu hành lang đã phát hiện các tầng văn hoá ở thế kỷ XVIII, XIX (
độ sâu 0,7m đến 0,3m ), tầng văn hoá ở thế kỷ XVI, XVII (
ở độ sâu 1,1m đến 0,8m), tầng văn hoá thế kỷ XIII, XV (
ở độ sâu 1,8m đến 1,0m), thu đợc trên 3000 hiện vật, bao gồm gạch, ngói, trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ… Đặc biệt là đã phát hiện hai lớp nền móng kiến trúc cũ của tả hữu hành lang chùa Côn Sơn.
- Lớp nền móng thứ nhất của dãy hành lang được xây dựng ở thế kỷ XIV.
- Lớp nền móng thứ hai dãy hành lang chùa Côn Sơn được trùng tu xây dựng ở thế kỷ XVI - XVII.
Nền móng kiến trúc nhà hậu Đường, đầu rồng bằng đất nung - chùa Côn Sơn, tháng 12/2005
Hiện vật khai quật hố 1, lớp1 phát hiện tại Hành lang chùa Côn Sơn,tháng 12/2005
Hiện vật khai quật hố 1, lớp2, phát hiện tại Hành lang chùa Côn Sơn tháng 12/2005
Ngoài ra, hệ thống di vật tìm thấy rất phong phú, đa dạng như : Gạch, ngói, bát, đĩa, tước, lon sành, bình, lọ, bát hương…được xác định có niên đại từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, đặc biệt có nhiều hiện vật thời Lê (thế kỷ XV, XVI), điều đó phù hợp với văn bia chùa và các thư tịch của chùa Côn Sơn ghi về lịch sử chùa Côn Sơn có từ thế kỷ XIII, XIV, được trùng tu, tôn tạo lớn vào thế kỷ XV và được mở rộng vào thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII.