Cuộc đời bi thảm của "Bao Công nước Việt": Mất hai con trai, chết bị quật mồ
- Thứ sáu - 24/06/2016 21:34
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Một phiên xử án ở Việt Nam ngày xưa.
Văn võ song toàn
Quận công Nguyễn Mại sinh năm 1655, quê ở xã Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương. Năm 1691, Nguyễn Mại khi đó 36 tuổi đỗ Hoàng giáp (vị trí chỉ đứng sau Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), ra làm quan dưới triều vua Lê Hy Tông.
Không chỉ giỏi văn chương chữ nghĩa, Nguyễn Mại cũng sở hữu nhiều phẩm chất của người nhà binh. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi: "Mại là người có sức mạnh, có trí lực, giỏi về việc cưỡi ngựa, bắn tên".
Với bản tính cương trực, Nguyễn Mại nhiều lần làm mất lòng chúa Trịnh Cương vì thẳng thừng chỉ trích lối sống xa hoa, lộng quyền của chúa. Dù vậy, chúa Trịnh vẫn có phần kiêng nể và trọng dụng ông vì biết ông có thực tài, lại là người vô cùng can đảm.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: "Trước kia, Mại giữ công việc ở Lễ phiên. Một hôm, khi đang bàn công việc ở phủ chúa, có con voi sổng chạy vào. Mọi người đều sợ hãi bỏ chạy, duy chỉ có Mại tinh thần khí sắc không thay đổi, vẫn trình bày công việc như thường".
Về sau, chúa Trịnh Cương quyết định bổ nhiệm Nguyễn Mại làm quan đốc trấn Cao Bằng, rồi Phó Đô Ngự sử. Sau này, ông được chuyển về trấn thủ Sơn Tây, thay thế quan Tổng trấn cũ. Việc này nhằm đối phó với nạn trộm cướp hoành hành tại đây.
Thành cổ Sơn Tây. (Ảnh: Wikimedia)
Việc bổ nhiệm Nguyễn Mại từ Phó Đô Ngự sử làm quan Tổng trấn được xem như là "giáng chức". Nhưng từ đây, những huyền thoại xử án về một vị quan được ví như "Bao Công nước Việt" bắt đầu mở ra.
Xử án như thần
Đến nay, nhiều tích truyện lưu truyền tài xử án của Nguyễn Mại vẫn còn được ghi lại. Ông xử án công minh, thấu tình đạt lý nên người dân hết mực nể trọng, tin yêu. Dân gian gọi ông là "Bao Công nước Việt" cũng từ đây mà ra.
Sách Đăng khoa lục sưu giảng có viết: Một hôm Nguyễn Mại đi bộ, thấy một người đàn bà mất một cái màn mà chửi rủa. Ông sai trói người đàn bà ấy ở quán rồi cho gọi hàng xóm đến. Ông mắng rằng: "Mất một cái màn đáng giá bao nhiêu tiền mà chửi tổ tông người ta?".
Ông sai tất cả đàn ông, đàn bà xóm làng và vào má người đàn bà. Mọi người sợ lệnh ông, nhưng thương hại người đàn bà không nỡ tát mạnh. Duy có một người đàn bà trong đám lại hết sức tát thật mạnh. Nguyễn Mại lập tức cho bắt người đó lại tra hỏi.
Quả nhiên sau đó người đàn bà kia phải thừa nhận mình là người trộm màn. Vì bị chửi rủa mà sinh tức, cố tát cho sướng tay nên mới lộ rõ chân tướng phạm tội. Ai cũng khen ngợi Nguyễn Mại là thần minh.
Ảnh minh họa
Một hôm khác, Nguyễn Mại giả dân thường vi hành chợ Sơn Tây. Ông gặp ngay cảnh hai người đàn bà cãi nhau, giành một tấm lụa, ai cũng bảo đó là lụa của mình bị lấy cắp. Thấy vậy Nguyễn Mại bèn lộ diện là quan đốc trấn phân xử: "Xé đôi tấm lụa, chia cho mỗi người một nửa".
Sau khi được quan phân xử, một người quỳ xuống vừa cầm mảnh lụa vừa khóc, còn người kia vui vẻ cười nói, vừa đi vừa hát. Nguyễn Mại bèn sai người bắt người cười hát lại, nói: "Phàm chỉ có người làm ra tấm lụa mới biết trân trọng, tiếc công sức của mình. Chỉ có nhà ngươi, khi không được hưởng công sức người khác nên mới hí hửng nhường ấy".
Rồi Nguyễn Mại bắt người kia trả lại tấm lụa bị xé cho người phụ nữ ngồi khóc, và phải bồi thường thêm tiền, sau đó dẫn về nha môn xét xử. Ấy chính là vụ án "Xé đôi tấm lụa" nổi tiếng được lưu truyền trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam.
Một ngày nọ, có lão nông từ huyện Tam Đái lên trình báo Nguyễn Mại xin được mổ trâu vì trâu nhà ông bị kẻ gian cắt lưỡi nên chết. Thời xưa, trâu được coi là gia súc quý phục vụ nhà nông, nên ai muốn giết trâu phải báo với quan tri huyện. Quan tri huyện đồng ý thì mới được giết trâu.
Nhưng chính vì luật lệ này mà có nhiều kẻ ghen ghét nhau mới sinh ra âm mưu lén cắt lưỡi trâu hàng xóm rồi vu oan giá họa. Nghe ông lão thật thà kể chuyện, Nguyễn Mại sinh nghi, tự hỏi tại sao ông lão không trình báo quan huyện mà lại tới đây xin phép mình?
(Ảnh: Wikimedia)
Nghĩ vậy, Nguyễn Mại bảo ông lão cứ về mổ trâu, xả thịt không cần báo quan huyện. Ít lâu sau, tri huyện Tam Đái gửi thư lên cho ông về việc có người mổ trâu không xin phép, kèm lá thư tố cáo của một người dân trong làng.
Ngay lập tức, Nguyễn Mại sai lính bắt người tố cáo giải lên công đường. Tên này khai nhận vì ghen ghét với ông lão nên lén giết trâu, sau đó thông đồng với tri huyện để "vừa ăn cướp vừa la làng", lại còn được lĩnh thưởng. Tri huyện Tam Đái sau đó cũng phải chịu phạt.
Những vụ án tưởng chừng không có manh mối như vậy luôn được Nguyễn Mại điều tra phá án theo cách không ai ngờ tới. Như chuyện một người báo bị mất trộm buồng chuối, Nguyễn Mại nhìn vết chặt nên đoán tên trộm chưa đi xa được. Ông liền gọi tráng đinh trong làng đến vét bùn ao trước sân đình.
Sau khi mọi người vét bùn ao xong, Nguyễn Mại sai tất cả đi rửa sạch tay, lại bảo người phát trầu cau cho từng người một ăn. Ông để ý thấy có một kẻ chìa ra bàn tay lấm bẩn dù đã rửa sạch.
Ông cho bắt kẻ đó lại, nói: "Chỉ có bàn tay dính nhựa chuối, lại ngâm xuống bùn thì mới bẩn, không dễ rửa sạch như vậy". Tên này sau đó nhanh chóng thú tội, bồi thường và trả lại buồng chuối cho người bị mất cắp.
Ảnh chụp một phiên tòa xử án ngày xưa.
Lòng chính trực cảm hóa cả trộm cướp
Thời còn làm Đốc trấn Cao Bằng, Nguyễn Mại thường xuyên phải đối phó với nạn trộm cướp từ giặc phỉ bên Quảng Tây sang cướp phá. Nguyễn Mại suy xét kỹ thì thấy đám giặc phỉ này thực chất chỉ là nông dân nghèo, vì quá đói kém nên mới sinh trộm cướp chứ chẳng phải bọn bất lương.
Ông sai quan quân dàn trận bắt sống cả lũ nhưng không hề xét xử, cũng không hề báo cho quan lại bên Quảng Tây. Việc duy nhất ông làm là... thả chúng về. Ít lâu sau, bọn giặc phỉ Quảng Tây lại tràn sang. Ông bắt rồi lại thả về, thậm chí còn cấp lương cho ăn dần.
Nguyễn Mại bắt rồi thả đám giặc phỉ tổng cộng ba lần. Kể từ đó, trấn Cao Bằng không còn chịu nạn giặc phỉ sang cướp phá nữa.
Một lần khác, khi làm đốc trấn Sơn Tây, công sở Nguyễn Mại làm việc bất ngờ bị cháy. Đám cháy lớn lan nhanh sang cả nhà ngục bên cạnh. Nơi đây nổi tiếng giam giữ những tên đầu trộm đuối cướp, lưu manh của cả trấn Sơn Tây.
Lúc này, Nguyễn Mại ra một quyết định đầy nguy hiểm: Sai người mở khóa thả toàn bộ tù nhân ra. Ông sợ nếu cứ để họ trong đó, tất cả sẽ chết cháy. Khi đó những tên này hoàn toàn có thể chạy trốn, nhưng không ai bảo ai, mọi người ở lại chuyền tay nhau từng gáo nước dập lửa.
Đến khi đám cháy được dập tắt xong, viên quan thư lại lấy sổ sách điểm danh đám tù nhân để xem ai còn ở lại, ai đã chạy mất. Ông ngạc nhiên vì tất cả đám tù nhân đều được tập hợp đầy đủ, không ai bỏ trốn. Tài đức của Nguyễn Mại khiến cả trộm cướp cũng phải thán phục như thế!
Sau này, chính sử cũng ghi nhận tài xử án của Nguyễn Mại: "Mại ở trấn, hiệu lệnh gì đã ban bố là bắt phải tuân hành, điều cấm gì đã ấn định là bắt phải thôi hẳn. Vì thế mà bọn trộm giặc phải ẩn nấp một nơi không dám hành động. Mại nổi tiếng là người có tài về chính trị".
Cái chết bí ẩn và câu chuyện bị quật mồ
Với những công trạng hiển hách, Nguyễn Mại được vua Lê chúa Trịnh tin dùng, nhiều lần cử đi sứ các nước lân bang. Năm 1720 Nguyễn Mại qua đời, thọ 65 tuổi. Sau khi mất, ông được truy tặng chức Lễ bộ Thượng thư, tước Quận công.
Dù vậy, có một số tài liệu ghi rằng Nguyễn Mại chết do bị chúa Trịnh Cương sai người sát hại. Lý do nằm ở việc ông không ngại ngùng can gián chúa Trịnh làm những điều sai trái, ngược đạo quân vương với vua Lê. Luận điểm này không phải không có cơ sở vì Nguyễn Mại mất khi đương chức.
Sống cuộc đời thanh liêm trong sạch, được dân chúng tin yêu nhưng Nguyễn Mại cũng không tránh khỏi tai ương bất hạnh của cuộc đời. Hai con trai đầu của ông là một cặp sinh đôi, từ nhỏ đã nổi tiếng văn hay chữ tốt. Cả hai thi đỗ Hương cống khi mới 16 tuổi, nhưng sớm qua đời vì dịch bệnh.
Sau này con cháu Nguyễn Mại nổi dậy chống vua Lê chúa Trịnh. (Ảnh minh họa)
Mất con, nhưng Nguyễn Mại vẫn nén nỗi buồn của một người cha lại để tiếp tục xử án, hoàn thành công việc, giữ trọn đạo vua tôi. Sau này ông mất, được con trai thứ ba đưa về quê Chí Linh an táng. Dù vậy, tai ương với "Bao Công nước Việt" vẫn ập tới ngay khi ông đã chết.
Hai mươi năm sau khi Nguyễn Mại mất, năm 1740, nông dân vùng Chí Linh nổi dậy, tập hợp nghĩa quân chống lại triều đình vì không chịu nổi áp bức. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là anh em Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, hai cháu nội của Nguyễn Mại.
Chúa Trịnh sai quân đi đánh dẹp vùng Chí Linh. Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển bị bắt, quy kết tội làm phản nên chịu tội chém đầu, tru di tam tộc. Mồ mả họ hàng nhà hai ông bị đào lên, ném xương cốt xuống sông, trong đó có cả mộ Nguyễn Mại.
Sau này nhiều sử gia vì muốn lên án, chỉ trích những vụ khởi nghĩa nông dân đã thêu dệt nhiều chuyện xấu bôi nhọ cuộc đời Nguyễn Mại. Dù vậy, dân gian vẫn lưu truyền lại những kỳ án ông từng phá, những câu chuyện về cuộc đời thanh liêm trung dũng của ông.
Nguyễn Mại, trong sử sách vẫn luôn được ghi lại và người đời nhớ tới với biệt danh "Bao Công nước Việt".