Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Côn Sơn - Kiếp Bạc
- Thứ sáu - 20/11/2015 09:20
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Tổng thể khu di tích gồm 2 khu vực chính: chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.
1. Khu vực chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn: tên Nôm là chùa Hun, tên chữ là Thiên Tư Phúc tự, Tư Phúc tự, Côn Sơn tự, được xây dựng từ thế kỷ XIV, đã qua nhiều lần trùng tu. Các hạng mục kiến trúc chính của chùa hiện nay gồm: hồ bán nguyệt, tam quan, sân trước, tiền đường (5 gian, 2 chái), thiêu hương (3 gian), thượng điện (3 gian), nhà Tổ, điện Mẫu, vườn tháp, nhà bia, cùng một số hạng mục phụ trợ khác…
Tả, hữu hậu hành lang: hai dãy tả, hữu hậu hành lang dài 75,13m, rộng 3,86m, mỗi bên gồm 29 gian.
Thanh Hư động: nằm ở phía Tây Bắc núi Côn Sơn. Đây là một thung lũng, được bao bọc bởi núi Côn Sơn và núi Ngũ Nhạc, giữa là suối Côn Sơn. Thanh Hư động bao gồm nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng, gắn với một số danh nhân, hiền sĩ thời Trần và thời Lê, như nhà ở của Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, cầu Thấu Ngọc, nền nhà Nguyễn Trãi, bàn đá, suối Côn Sơn…
Đền thờ Nguyễn Trãi: Khu đền có 15 hạng mục công trình. Đền chính rộng 200m2, mặt bằng kiến trúc dạng chữ Công.
Đền thờ Trần Nguyên Đán: Đền được dựng trên mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm bái đường và hậu cung. Kiến trúc bái đường gồm 2 tầng, 8 mái. Hậu cung là nơi đặt tượng Trần Nguyên Đán, được đúc bằng đồng. Cạnh đền thờ là dấu tích nền nhà cũ của quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, hiện được bảo tồn nguyên trạng.
Núi Ngũ Nhạc: là dãy núi xoải dài từ Bắc xuống Nam, với chiều dài hơn 4km, gồm có 5 đỉnh. Đỉnh cao nhất khoảng 238m, nằm về phía Đông Bắc của dãy Côn Sơn. Các ngôi đền/miếu ở đây đều được xây dựng lộ thiên, bằng các khối đá xanh...
Bàn cờ tiên: đỉnh Côn Sơn là một khu vực khá bằng phẳng. Tương truyền, từ thời Trần, Pháp Loa Tôn giả - tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm, đã lập một bàn cờ tại vị trí này, tục gọi là Bàn cờ Tiên. Hiện nay, tại khu vực này mới dựng thêm một nhà bia, theo kiểu vọng lâu, với 2 tầng, 8 mái.
Đăng Minh bảo tháp: giữa hai khu vườn tháp, ở phía trên giếng Ngọc, là Đăng Minh bảo tháp - tháp Tổ Huyền Quang, vị Tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Sau khi Tổ Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn (1334), tháp mộ của ông được dựng ở vị trí này. Đăng Minh bảo tháp hiện nay được dựng lại trên nền tháp cũ, trên bình đồ rộng 8,40m, dài 7,78m, gồm 3 tầng, cao khoảng 6m, được ghép bởi những phiến đá hình hộp chữ nhật.
Hồ Côn Sơn: có diện tích 43 ha, với sức chứa hàng trăm ngàn mét khối nước. Bao quanh hồ là hệ thống đường dạo, cây cảnh.
Suối Côn Sơn: Bắt nguồn từ hai dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng 3km, uốn lượn tạo thành nhiều ghềnh, thác kế tiếp nhau, rồi đổ vào hồ Côn Sơn.
2. Khu vực đền Kiếp Bạc
Đền Kiếp Bạc: tức đền thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo vương từ), còn được biết đến với các tên gọi khác, như đền Kiếp, đền Vạn Kiếp, đền Trần Hưng Đạo. Đền được xây dựng ở trung tâm của thung lũng Kiếp Bạc, trên một khu đất có diện tích khoảng 13.5km2. Đền quay về hướng Tây Nam, nhìn ra sông Lục Đầu, gồm các hạng mục kiến trúc: trạm hạ mã, đường thần đạo, nghi môn, sân đền, tả hữu thành các, giếng mắt rồng, tắc môn, nhà giải vũ, đền chính. Đền chính được dựng theo dạng “tiền nhất, hậu đinh”, gồm tiền tế, trung từ và hậu cung.
Sinh từ: cách đền Kiếp Bạc 800m về phía Đông Bắc. Để ghi nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo vương, vua Trần Nhân Tông đã cho xây dựng đền thờ ngay khi Hưng Đạo vương còn sống, nên được gọi là Sinh từ. Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã đích thân viết văn bia ca ngợi công lao của Hưng Đạo Vương. Đến nay, Sinh từ chỉ còn lại phế tích.
Đền Nam Tào: thờ quan Nam Tào, cách đền Kiếp Bạc 500m về phía Tây Nam, thuộc thôn Dược Sơn. Kiến trúc này được xây dựng trên một không gian thoáng, với diện tích trên 2km2, gồm các thành phần kiến trúc: trụ biểu, tam quan, gác chuông, gác trống, tả hữu hành lang, đền chính và hậu đường.
Đền Bắc Đẩu: thờ quan Bắc Đẩu, được xây dựng trên đỉnh núi Bắc Đẩu, trong một không gian thoáng rộng, gồm các hạng mục: nghi môn, gác chuông, gác trống, tả hữu hành lang, đền chính, hậu đường và một số công trình phụ trợ khác…
Vườn Dược Sơn: tức Dược lĩnh cổ viên. Tương truyền, đây là vườn thuốc Nam, do Trần Hưng Đạo trồng trên núi Dược Sơn, nay thuộc thôn Dược Sơn, xã Hưng Đạo. Núi Dược Sơn nằm ở phía Nam của đền Kiếp Bạc, với diện tích trồng thuốc Nam khoảng 10 km2.
Ao Cháo: nằm ở phía dưới chân núi Trán Rồng, thuộc địa phận thôn Bắc Đẩu. Tương truyền, Trần Hưng Đạo đã tập trung quân sỹ để đào ao, đón nước từ hố Máng nước để nấu cháo dưỡng thương cho binh lính. Hiện nay, nơi này chỉ còn lại phế tích.
Sông Vang - Xưởng Thuyền: là di tích nằm trên cánh đồng Vạn Yên, cách đền Kiếp Bạc 1km về phía Bắc. Tương truyền, Trần Hưng Đạo đã cho quân sỹ đào sông Vang ở trung tâm đại bản doanh, để làm đường thủy trong khu vực nội địa của Thái ấp Vạn Kiếp. Tại sông Vang, Trần Hưng Đạo đã cho xây dựng Xưởng Thuyền để đóng, sửa chữa và cất giấu thuyền chiến. Hiện nay, hai di tích này chỉ còn dấu vết khá mờ nhạt.
Hang Tiền: nằm dưới chân núi Bắc Đẩu, cách đền Kiếp Bạc 500m về phía Bắc. Tương truyền, đây là nơi cất dấu ngân khố của Phủ đệ Trần Hưng Đạo để phục vụ kháng chiến. Hang Tiền rộng khoảng 1ha. Tại khu vực này còn dấu tích các vòm hầm đào vào núi, cao 1,5m, rộng 1,3m.
Hố Thóc: cách đền Kiếp Bạc 2km về phía Đông Nam. Tương truyền, địa điểm này từng là nơi cất giữ lương thảo. Hiện nay, di tích đã bị hư hại, chỉ còn lại phế tích.
Viên Lăng: nằm trên gò đất nhỏ, hình tròn, cách đền Kiếp Bạc khoảng 300m về phía Đông Nam. Tương truyền, Trần Hưng Đạo được an táng ở đây.
Núi Trán Rồng: nằm ở phía sau đền Kiếp Bạc. Trên sườn núi có nhiều di tích, di chỉ khảo cổ thời Trần...
Sông Lục Đầu - Cồn Kiếm: là nơi đã diễn ra trận Vạn Kiếp lịch sử (năm 1285), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của quân Nguyên - Mông lần thứ 2. Sông Lục Đầu có vị trí chiến lược rất quan trọng. Tại đây, Thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị Bình Than. Trên sông Lục Đầu, trước cửa đền Kiếp Bạc có một cồn cát chạy dài, gọi là Cồn Kiếm. Tương truyền, đây là nơi Trần Hưng Đạo thả kiếm xuống sông khi đất nước thái bình.
Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc là trung tâm văn hóa, tôn giáo - tín ngưỡng lớn ở khu vực đông bắc châu thổ Bắc Bộ. Trải qua trên 700 lịch sử, tại khu di tích này, các lễ hội truyền thống gắn với khu di tích vẫn được duy trì, có sức thu hút đặt biệt, trở thành nhân tố không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tâm linh của cộng đồng. Hàng năm, hội Côn Sơn (gắn với Trúc Lâm đệ tam Tổ - Huyền Quang) được bắt đầu từ rằm tháng Giêng và kéo dài đến hết tháng Giêng... Lễ hội đền Kiếp Bạc (gắn với ngày giỗ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn) được tổ chức từ ngày 16 tháng 8 và kết thúc vào ngày 20 tháng 8 (Âm lịch) hàng năm... Ngoài ra, trong khu vực di tích còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật của nhiều thời kỳ lịch sử, có giá trị độc đáo.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của khu di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Côn Sơn - Kiếp Bạc là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 548/QĐ-TTg, ngày 10/5/2012).